ban truyen kieu co nhat

32
1 Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy đã đau đớn lòng. 5 Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen với má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình có lục còn truyền sử xanh. Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh, 10 Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung. Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. 15 Đầu lòng hai ả tố nga. Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, 1

Upload: tannhat56

Post on 09-Apr-2016

16 views

Category:

Documents


0 download

DESCRIPTION

Bản Kiều có mặt sớm nhất Việt Nam

TRANSCRIPT

Page 1: Ban Truyen Kieu Co Nhat

1 Trăm năm trong cõi người ta.

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy đã đau đớn lòng.

5 Lạ gì bỉ sắc tư phong,

Trời xanh quen với má hồng đánh ghen.

Cảo thơm lần giở trước đèn,

Phong tình có lục còn truyền sử xanh.

Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh,

10 Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Có nhà viên ngoại họ Vương,

Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.

Một trai con thứ rốt lòng,

Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.

15 Đầu lòng hai ả tố nga.

Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.

1

Page 2: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Vân xem trang trọng khác vời,

20 Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Chú Thích:

Câu 1: Trăm năm: Thời gian một đời người ta ở trần thế. Cổ ngữ: Nhân sinh bách tuế vi kỳ = Người ta sống lâu chừng trăm tuổi. Ở câu này chữ "Trăm năm" có thể thay bằng chữ "Xưa nay", "đại phàm" vì chỉ ngụ ý nói bao quát mà thôi chứ không phải là hạn định 100 năm như mấy chỗ khác trong chuyện.

Câu 3: Bể dâu: do chữ "tang thương" dịch ra. Sách Ấu học tầm nguyên có câu: "Thương hải tang điền, vị thế sự chi da biến" ý nói bể xanh biến thành ruộng dâu là chỉ việc đời nhiều biến đổi.

Câu 5: Bỉ sắc tư phong: điều kia kém thì điều này hơn, ý nói có tài thì kém mệnh, có nhan sắc thì bị tạo hoá ghét ghen.

Câu 7: Cảo thơm: (cảo: bản thảo) pho sách hay.

Câu 8:Phong tình có lục: xem các bản nôm đã viết là   thì câu này phải phiên âm là "Phong tình có lục còn truyền sử xanh" vì chữ nôm có

mượn chữ   (cổ trong bộ vi). Nếu là "cổ" lục thì chữ Hán đã có sẵn

chữ   cổ, sao lại không dùng đến. "Phong tình có lục": có cái bản truyện phong tình còn để lại trong sử sách. Bản quốc ngữ đầu tiên đã phiên "cổ lục" là bản Kim Vân Kiều tân chuyện của Edmond Nordemann in năm 1897.

Câu 8: Sử xanh: ngày xưa chưa có giấy, người ta phải chép sử và những thẻ tre xanh nên mới gọi như vậy.

Câu 9: Gia Tĩnh: niên hiệu vua Thế Tông nhà Minh (1522-1566)

Câu 9: Triều Minh: là một triều đại phong kiến của Trung Quốc, từ năm 1368 đến năm 1644.

2

Page 3: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 10: Hai kinh: tức Bắc Kinh và Nam Kinh.

Câu 11: Viên ngoại: chức quan ngoại ngạch để những người giàu có được bỏ tiền ra mua cho thêm danh giá.

Câu 12: Gia tư: của cải trong nhà, cũng như "gia sản".

Câu 12: Nghĩ: cho là, ước chừng. Các bản Nôm kể cả bản LVĐ (1871) đều

viết   thì phải phiên âm là "nghĩ" mới đúng. Bản KOM viết

là   (nghỉ) nên về sau bản BK.TTK và bản TĐ mới phiên âm là "nghỉ" và chú thích là hắn, va, nó...Theo chúng tôi nghĩ chữ "nghỉ" có ngụ ý khinh rẻ nên không thích hợp ở đây để chỉ Viên ngoại.

Câu 14: Nho gia: nhà theo nho học.

Câu 15: Tố nga: (tố: trắng, nga: người con gái đẹp), người con gái đẹp ví với Hằng Nga ở trên cung trăng.

Câu 17: Mai cốt cách: ý nói về dáng vóc con người thanh tú như cành mai. "Cốt cách": bộ xương, kiểu dáng con người.

Câu 17: Tuyết tinh thần: ý nói tinh thần trong trắng như tuyết.

Câu 19: Trang trọng: có vẻ nghiêm trang đứng đắn.

Câu 22: Mây thua nước tóc: mây thua cải vẻ óng mượt của làn tóc mềm mại."Nước là cái ánh, cái vẻ óng mượt.

Câu 22: Tuyết nhường màu da: tuyết đã trắng mà cũng phải chịu kém màu trắng của làn da mịn màng như ngọc, như ngà.

25 Làn thu thuỷ, thấp xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một đôi nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

30 Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm.

3

Page 4: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

35 Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,

Êm niềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Tiết vừa con én đưa thoi,

40 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là Tảo mộ, gọi là đạp thanh.

45 Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Chú Thích:

4

Page 5: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 25: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn: ý nói mắt trong như nước mùa thu, lông mày phơn phớt xanh như núi mùa xuân. Bản LVĐ 66 đã khắc là "thấp".

Câu 27: Nghiêng nước nghiêng thành: ý nói đến cái đẹp làm cho người ta phải say mê mà mất cả thành mất cả nước. Ý ấy mượn trong bài ca của Lý Diên Niên: " Bắc phương hữu giai nhân, tuyệt thế nhi độc lập, nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc..." = Phương Bắc có người con gái đẹp, đẹp nhất đời mà còn ở một mình. Người đẹp ấy chỉ ngoảnh lại một lần là nghiêng cả thành, ngoảnh lại lần nữa là nghiêng mất cả nước...

Câu 27: Một hai: đây là dịch mấy chữ "nhất cố, tái cố" trong điển trên.

Câu 31: Cung thương: hai âm đứng đầu trong ngũ âm tức: cung, thương, giốc, chuỷ, vũ.

Câu 31: Lầu bậc: thuộc lòng các cung bậc.

Câu 32: Hồ cầm: ta thường hiểu là cây đàn tỳ bà, một thứ đàn nguyên ở nước Hồ làm ra.Thực ra đàn tỳ bà không phải là đàn Hồ cầm vì đàn Hồ cầm là một thứ đàn hai dây kếo vĩ, ta quen gọi là nhị, ta quen gọi là nhị, " nhị hồ" hay "đàn gáo".Gs. Trần Văn Khê cho rằng: "Cây đàn mà Thuý Kiều đánh chắc chắn không phải là cây đàn kéo vĩ bốn dây, đàn "tứ hồ" bởi vì Hồ cầm là cây đàn hơi thô rất ít khi phụ nữ chơi"Chính vì lẽ ấy mà khi vẽ Thuý Kiều gảy đàn, người ta đều vẽ nàng gảy cây đàn tỳ bà.

Câu 32:Một trương: các bản nôm hầu hết đều viết     "một trương"

nhưng cũng có một vài bản viết tắt chữ một là  (không có chấm thuỷ) như bản Kim Vân Kiều tân truyện của Duy Minh Thị hoặc Kim Vân Kiều hợp tập khắc in năm 1924 nên có người mới đọc lầm là "Ngải

Trương". Chữ   (một) thực ra viết khác với chữ   (ngải) có

bộ   (thảo) ơ trên."Trương" có nghĩa là cây đàn. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kỳ nhất cục": cầm một cây, cờ một cuộc.Cả câu 32 ý nói cô Kiều có tài riêng về cây đàn Hồ cầm, ăn đứt được tất cả mọi người, không ai sánh kịp.

Câu 33: Khúc nhà: khúc đàn do Thuý Kiều soạn ra.

Câu 33: Chương: chương khúc, bài nhạc.

Câu 34: Thiên Bạc mệnh: tên bài đàn, bài nhạc do Thuý Kiều soạn ra nhan đề là Oán bạc mệnh.

5

Page 6: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 34: Não nhân: làm cho người nghe phải sầu não trong lòng.

Câu 35: Hồng quần: cái quần mầu hồng người phụ nữ Trung Quốc xưa thương mặc; đây dùng để chỉ tư cách cao quí của người phụ nữ.

Câu 36: Cập kê: cài trâm. Theo tục lệ cổ Trung Quốc, con gái đến 15 tuổi bắt đầu cài trâm tức là đã đến tuổi lấy chồng.

Câu 38: Tường đông: tường nhà ở phía đông, chỉ nhà bên hàng xóm.

Câu 38: Ong bướm: ý nói đến cảnh những chàng trai tìm cách cách ve vãn con gái.

Câu 40: Thiều quang: ánh sáng tốt đẹp tức nắng xuân đẹp đẽ. Cả câu ý nói trong chín chục ngày xuân đẹp đẽ đã hơn sáu chục ngày qua đi rồi.

Câu 43: Thanh minh: theo âm lịch một năm chia làm 24 tiết, tiết thanh minh là một tiết thuộc mùa xuân nhằm vào khoảng đầu tháng ba âm lịch.

Câu 44: Tảo mộ: (tảo: quét, mộ: mồ mả) quét dọn sửa sang lại các phần mộ cho sạch sẽ.

Câu 44: Đạp thanh: giẫm lên cỏ xanh. Người ta đi tảo mộ ở ngoài đồng cỏ đông như hội nên gọi là hội đạp thanh.

Câu 45: Yến anh: hai loài chim thường bay thành đàn về mùa xuân, đây ngụ ý nói người đi chơi xuân đông đúc từng đoàn, từng lũ.

Câu 47: Tài tử giai nhân: trai tài gái sắc.

Câu 48: Áo quần như nêm: "nêm" đây là những mảnh gỗ mỏng đóng trên hai mặt thớt cối xay lúa khít nhau như những hàng răng. Chữ Hán có câu: "Xa mã như thuỷ, y thường như xỉ", ngựa xe đi lại như nước chảy, áo quần chật khít nhau như những hàng răng ở trên mặt cối. Cả câu 48 ý nói ngựa xe qua lại liên tiếp như nước chảy, khách du xuân áo quần đẹp đẽ chen khít nhau như những mảnh nêm ở trên mặt thớt cối xay. Câu này đặt theo lối tiểu đối: "thuỷ" (danh từ) đối với "nêm" (danh từ).

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

50 Thoi vàng búa (vó) rắc, tro tàn giấy bay.

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

6

Page 7: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh:

55 Nao nao dòng nước uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nắm đất bên đàng,

Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Rằng: "Sao trong tiết Thanh minh,

60 Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?"

Vương Quan mới dẫn gần xa:

"Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.

Nổi danh tài sắc một thì,

Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh.

65 Kiếp hồng nhan có mong manh,

Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương!

Có người khách ở viễn phương,

Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.

Thuyền tình vừa ghé đến nơi,

70 Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!

Buồng không lạnh ngất như tờ,

7

Page 8: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.

Chú Thích:

Câu 50: Vàng vó: đồ mã làm giả những thoi vàng hình khối chữ nhật dùng để rắc lúc đưa ma hay để cũng lúc đi tảo mộ.

Câu 53: Tiểu khê: dòng nước nhỏ, ngòi nước nhỏ.

Câu 54: Thanh thanh: có vẻ xinh xắn.

Câu 56: Dịp: cũng viết là "nhịp". Trong thơ ca thường nói dịp.

Câu 56: Ghềnh: chỗ ngòi nước bị thu hẹp lại, hơi nông, có đá lởm chởm chắn ngang làm dòng nước dồn lại và chảy xiết.

Câu 57: Sè sè: ý nói thấp gần sát mặt đất.

Câu 57: Nấm đất: đây chỉ nấm mộ nhỏ.

Câu 62: Ca nhi: người con gái làm nghề ca hát ở các thanh lâu ngày xưa.

Câu 64: Yến anh: đây chỉ khách làng chơi tìm đến với Đạm Tiên đông như chim anh, chim yến.

Câu 65: Hồng nhan: má hồng, chỉ người đàn bà con gái đẹp.

Câu 66: Cành thiên hương: chỉ người con gái đẹp. "Thiên hương" là hương trời. Cả câu 66: ý nói người con gái đẹp đang độ tuổi thanh xuân mà đột nhiên nửa chừng bị chết.

Câu 67: Viễn phương: phương xa.

Câu 69: Thuyền tình: thuyền chở người khách có tình với Đạm Tiện đến. Kiều Oánh Mậu chú: "Tình sử": Thuyền dĩ tình quí = con thuyền lấy tình làm quí.

Câu 70: Trâm gãy bình rơi: cái trâm cài đầu bị gãy,cái bình hoa bị rơi vỡ, ý nói đến người đàn bà con gái đẹp bị chết. Thơ Bạch Cư Dị có câu: "Bình trầm trâm triết chi lại hà, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt" = bình chìm trâm gãy biết làm sao được, cũng như sáng hôm nay thiếp cùng chàng từ biệt.

Câu 71: Như tờ: như tờ giấy, thứ giấy bản ngày xưa. Ta thường nói "êm như tờ" vì hai tờ giấy bản chạm vào nhau vẫn êm, không gây ra tiếng động nào."Lạnh ngắt như tờ": lạnh lẽo và im không có một tiếng động nào.

Câu 72: Dấu xe ngựa: Dấu vết bánh xe ngựa của khách làng chơi tìm đến với Đạm Tiên.Đã rêu lờ mờ xanh: ý nói đã lâu rồi, rêu đã mọc che gần kín các vết xe

8

Page 9: Ban Truyen Kieu Co Nhat

ngựa.

Khóc than khôn xiết sự tình,

Khéo vô duyên bấy là mình với ta!

75 Đã không duyên trước chăng mà,

Thì chi chút ước gọi là duyên sau.

Sắm xanh nếp tử xe châu,

Vùi nồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.

Trải bao thỏ lặn ác tà,

80 Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm."

Lòng đâu sẵn món thương tâm,

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

"Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời là phận bạc cũng là lời chung.

85 Phũ phàng chi mấy hoá công

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

Sống làm vợ khắp người ta,

Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung,

9

Page 10: Ban Truyen Kieu Co Nhat

90 Nào người tiếc lục tham hồng là ai?

Đã không kẻ đoái người hoài,

Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.

Gọi là gặp gỡ giữa đường,

Hoạ là người dưới suối vàng biết cho."

95 Lầm rầm khấn vái nhỏ to,

Sụp ngồi bả cỏ trước mồ bước ra.

Chú Thích:

Câu 74: Vô duyên: không có nhân duyên với nhau nên không được gặp nhau.

Câu 76: Chút ước: một chút ước hẹn để dành về kiếp sau.

Câu 77: Nếp tử: cái áo quan bằng gỗ tử.

Câu 77: Xe châu: xe chở linh cữu có kết rèm ngọc châu. Theo đoạn này thì Nguyễn Du đã để Đạm Tiên chết được một thời gian (dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh) rồi người khách phương xa mới đến. Trong nguyên truyện thì: " Khi Đạm Tiên chết gặp phải mụ chủ tệ bạc toan đem vứt xác nàng ra bờ ngòi. May sao lúc ấy có một khách ở viễn phương vì mộ tiếng sắc tài của nàng nên mới tìm đến". Tưởng như vậy hợp lý hơn vì không làm gì có chuyện để quàn một chỗ chưa chôn ngay.

Câu 78: Vùi nông: chôn sơ sài, không có xây đắp mộ gì cả. Điều này cũng đúng với đoạn trên đã tả: "Sè sè nấm đất bên đàng". Bản BK-TTK cũng chép là "vùi nông". Tản Đà theo bản KOM chép là "Bụi hồng" và đã chú thích rằng: "Hai chữ "bụi hồng" đây chỉ là lời văn lịch sự, nói cái mả chôn ở bên đường. Có nhiều bản để là vùi nông thời làm mất cả vẻ hay mà lại thành ra cái tình của người khách không có trung hậu. Như sự sai lầm đó rất có hại đến văn lý."Thực ra thì theo mạch văn ở đây phải dùng hai chữ "vùi nông" mới chuyển tiếp được với việc "sắm sanh" ở câu trên.Hơn nữa người khách viễn phương chưa quen biết gì Đạm Tiên mà lo cho chôn cất như vậy đã là có tình rồi.

Câu 79: Thỏ lặn ác tà: Thỏ là chỉ mặt trăng, ác là chỉ mặt trời: ý nói đã bao ngày trôi qua rồi.

10

Page 11: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 80: Vô chủ: không có ai nhận, không có ai thăm viếng, quét dọn sửa sang lại.

Câu 82: Châu sa: giọt nước mắt chảy xuống. Cổ văn: "Sái giao nhân chi châu lệ" = người giao nhân khóc nước mắt sa xuống thành hạt châu.

Câu 89: Phượng chạ loan chung: chỉ những người khách làng chơi đã từng ăn nằm với Đạm Tiên. Cái cảnh phượng loan chung chạ là nói đến sự ái ân giao tình bừa bãi.

Câu 90: Tiếc lục tham hồng: tiếc mầu xanh, tham màu đỏ; chỉ những người khách làng chơi đã ham mê sắc đẹp của Đạm Tiên.

Câu 92: Kiếm: BK-TTK đã giảng: ""Kiếm" là để đem dâng, đem lễ, chữ

không phải là tìm kiếm". Các bản nôm đều viết   (kiếm) nhưng không thể hiểu như BK.TTK được. "Kiếm" chỉ có nghĩa là tìm kiếm. Sở dĩ ba chị em Thuý Kiều phải tìm kiếm một vài nén hương mà các người đi tảo mộ còn để lại vì lúc ra về ba chị em chỉ đi tay không: "Chị em thơ thẩn dan tay ra về", không cầm gì cả, chính sự tìm kiếm ấy đã cho ta thấy được lòng thương xót của Thuý Kiều đối với Đạm Tiên thật sâu sắc, thân chân tình.

Câu 94: Suối vàng: cho chữ "hoàng tuyền" là cái suối ở dưới đất mà theo ngũ hành đất thộc mầu vàng nên gọi là suối vàng.

Câu 96: Vài gật: tức là cúi đầu vái mấy cái. Nguyên truyện viết: Đảo thân tứ bái = nghiêng mình vái bốn cái.

Một vùng cỏ áy bóng tà,

Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.

Rút trâm sẵn giắt mái đầu,

100 Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.

Lại càng mê mẩn tâm thần,

Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

Lại càng ủ dột nét hoa,

11

Page 12: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.

105 Vân rằng: "Chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa."

Rằng: "Hồng nhan tự nghìn xưa,

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?

Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

110 Thấy người nằm đó biết sau thế nào?"

Quan rằng: "Chị nói hay sao,

Một điều là một vận vào khó nghe!

Ở đây âm khí nặng nề,

Bóng chiều đã ngả, dặm hoè còn xa."

115 Kiều rằng: "Những đấng tài hoa,

Chết là thể phách, còn là tinh anh.

Dễ thay tình lại gặp tình,

Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ."

Một lời nói chửa kịp thưa,

120 Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.

Chú Thích:

12

Page 13: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 97: Cỏ áy: cỏ vàng úa.

Câu 100: Bốn câu ba vần: tức là bài thơ tứ tuyệt.

Câu 101: Tâm thần: tâm trí, tinh thần, nói chung về tinh thần ý tưởng.

Câu 103: Nét hoa: nét mặt đẹp của người con gái."Ủ dột nét hoa" là nói nét mặt buồn rầu.

Câu 106: Người đời xưa: do chữ cổ nhân, chỉ người đã chết.

Câu 112: Vận vào: buộc vào mình.

Câu 113: Âm khí: khí âm, đây nói về cái khí ảm đạm lạnh lẽo ở bãi tha ma.

Câu 116: Thể phách: xác và vía; xác là hữu hình, phách là thuộc về vô hình, chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại. Chữ "thể phách" ở đây chỉ chung thể xác con người.

Câu 116: Tinh anh: tức là phần linh hồn. Nguyên truyện: "Tử giả thể phách, bất tử giả tinh thần" = người ta chết là mất đi cái thể xác chứ cái tinh thần thì không bao giờ mất được.

Câu 118: Hiển linh: hiện rõ ra sự linh thiêng.

Câu 120: Trận gió cuốn cờ: tức là trận gió mạnh có thể cuốn lá cờ lại.

_http://nomfoundation.org 

Ào ào đổ lộc đưa cây,

Ở trong dường có hương bay ít nhiều.

Đè chừng ngọn gió lần theo,

Dấu giày từng bước rêu in rành rành.

125 Mặt nhìn ai nấy đều kinh,

Nàng rằng: "Này thực tinh thành chẳng xa.

Hữu tình ta lại gặp ta,

Chẳng nề u hiển, mới là chị em."

13

Page 14: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Đã lòng hiển hiện cho xem,

130 Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.

Lòng thơ lai láng bồi hồi,

Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

Dùng dằng nửa ở nửa về,

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

135 Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau chân theo một vài thằng con con.

Tuyết in sắc ngựa câu giòn,

140 Cỏ pha màu (mùi) áo nhuộm non da trời.

Nẻo xa mới tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.

Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao.

Chú Thích:

Câu 126: Tinh thành: lòng rất chân thành, hoàn toàn thuần khiết.

Câu 128: U hiển: tối và sáng rõ; ý nói đến người chết ở dưới âm ty và kẻ sống ở

14

Page 15: Ban Truyen Kieu Co Nhat

trên dương gian."Chớ nề u hiển": không có phân biệt gì kẻ sống với người chết.

Câu 132: Cổ thi: bài thơ cổ, bài thơ làm theo cổ thể hoặc cổ phong chưa có niêm luật chặt chẽ.

Câu 134: Nhạc vàng: tức là nhạc ngựa bằng đồng vì sắc đồng màu vàng nên gọi là nhạc vàng cho đẹp lời.

Câu 136: Tay khấu: tay cầm cương ngựa. "Khấu": dây cương ngựa. "Lỏng buông tay khấu": thả chùng dây cương cho ngựa đi thong thả lại.

Câu 136:Dặm băng: chữ băng   có nghĩa là nước giá lạnh đông cứng lại

khác với chữ   băng là đi ngang, vượt lên. Vì mặt băng rất phẳng nên "dặm băng" có nghĩa là dặm đường bằng phẳng. "Dặm băng" được đặt đối với "tay khấu" nên chữ "băng" không thể là động từ được.

Câu 137: Đề huề: mang dắt. Ý nói Kim Trọng đi vui vẻ có một vài đứa tiểu đồng theo sau chân ngựa.

Câu 137: Lưng túi gió trăng: do các chữ "bán nang phong nguyệt (nửa túi gió trăng). Các nhà thơ xưa thường hay lấy gió trăng làm đề tài ngâm vịnh nên mới gọi "túi thơ" là túi gió trăng.

Câu 139: Ngựa câu: ngựa non, đương sức mạnh.

Câu 139:Giòn: chữ   "giòn" ở các bản Kiều nôm thường viết có khung

"bệnh" bằng chữ   "tồn". Chữ "giòn" (dòn) có thể hiểu nghĩa là đẹp.

Câu 142: Tự tình: bày tỏ nỗi lòng của mình.

Câu 143: Hài văn: thứ giày thêu mà các nho sinh ngày xưa thường dùng.

Câu 143: Dặm xanh: dặm cỏ xanh, đối chiếu lên "dặm băng" thì hai chữ "xanh" và "băng" đều là tính từ. Dặm cỏ xanh bằng phẳng gọi là "dặm băng".

Câu 144: Cây quỳnh cành dao: hai thứ cây cảnh đẹp. KOM chú: "Vương Diễn thần thái như quỳnh lâm dao thụ phong trần ngoại vật" = Phong cách tinh thần Vương Diễn đẹp như rừng quỳnh cây dao, thực là một bậc ngoài cõi phong trần vậy. (Thế thuyết).

145 Chàng Vương quen mặt ra chào,

15

Page 16: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Hai kiều e mặt nép vào dưới hoa.

Nguyên người quanh quất đâu xa,

Họ Kim, tên Trọng vốn nhà trâm anh.

Nền phú quí, bậc tài danh,

150 Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Thiên tư tài mạo tót vời,

Vào trong thanh nhã, ra ngoài hào hoa.

Chung quanh vẫn đất nước nhà,

Với Vương Quan, trước vẫn là đồng thân.

155 Vẫn nghe thơm nức hương lân,

Một nền Đồng Tước khoá xua^n hai Kiều.

Nước non cách mấy buồng điều,

Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng.

May thay giải cấu tương phùng,

160 Gặp tuần đố lá, thoả lòng tìm hoa.

Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,

Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,

Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.

16

Page 17: Ban Truyen Kieu Co Nhat

165 Chập chờn cơn tỉnh cơn mê

Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.

Bóng tà như giục cơn buồn,

Khách đà xuống ngựa, người còn ghé theo.

Chú Thích:

Câu 146:Hai kiều: (kiều   là người con gái xinh đẹp) chỉ hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân.

Câu 147: Đâu xa: ý nói không có đâu xa.

Câu 148: Trâm anh: (trâm: cái trâm để cài tóc, anh: cái dải mũ)"Nhà trâm anh": nhà quyền quí dòng dõi làm quan.

Câu 149: Phú hậu: giàu có và phúc hậu.

Câu 149: Tài danh: người có tài và nổi tiếng.

Câu 151: Phong tư: hình dáng người có vẻ nho nhã, rất có tư cách.

Câu 151: Tài mạo: vẻ mặt thông minh, có tài năng.

Câu 152: Phong nhã: phong lưu tao nhã, ý nói người có dáng dấp một nhà nho tài giỏi thơ văn.

Câu 152: Hào hoa: nói người ăn chơi hào phóng lịch sự.

Câu 155: Hương lân: chỗ hàng xóm láng giềng trong làng

Câu 156: Đồng tước: tên một cái đài. Đời Tam Quốc, Tào Tháo định nếu đánh thắng Đông Ngô sẽ bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều về giữ kín ở đài Đồng Tước.

Câu 156: Hai Kiều: hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều. Chữ Kiều ở đây viết hoa vì

là tên người  . Hai chữ  và  (kiều = người con gái đẹp) cùng đồng âm nên có một ý nghĩa rất đặc biệt.

Câu 157: Buồng thêu: buồng của con gái ở.

Câu 158: Chốc mòng: lúc lúc lại tưởng nhớ, ý nói nhớ hoài không bao giờ quên, chốc chốc lại nhớ đến.

17

Page 18: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 159: Giải cấu tương phùng: tình cờ không hẹn mà gặp.

Câu 160: Đố lá: hội đố lá tức là đố cỏ ("đấu thảo" hoặc "diệp hí"). Bên Trung Quốc, đời Đường có hội đấu hoa lá.

Câu 161: Bóng hồng: bóng người con gái, đây chỉ bóng của hai chị em cô Kiều.

Câu 162: Xuân lan thu cúc: hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu, mỗi đoá hoa có một vẻ đẹp riêng. Thuý Kiều và Thuý Vân cũng vậy, mỗi người có một vẻ đẹp riêng.

Câu 163: Quốc sắc: sắc đẹp nổi tiếng trong nước, vào bậc nhất trong nước. "Người quốc sắc": đây chỉ Thuý Kiều.

Câu 163: Thiên tài: tài do trời phú cho, tài cao hơn hẳn mọi người."Kẻ thiên tài": đây chỉ Kim Trọng.

Câu 166: Rốn ngồi: ngồi thêm, cố ngồi thêm. Thực ra ở ngoài cánh đồng, ghế đâu mà ngồi. Kim Trọng và Vương Quan đều đứng mà nói chuyện với nhau.

Câu 166: Chỉn khôn: không xong, chẳng được.

Câu 168:Ghé theo: nhìn với theo, liếc mắt nhìn theo. Chữ   "ghé" (nhìn theo)

viết có bộ "mục" khác với chữ "ghé"   (tạt vào), viết có bộ "túc".

Dưới khe nước chảy trong veo,

170 Bên cầu tơ liễu bóng chiều đã ra.

Kiều từ trở gót trướng hoa,

Mặt trời đến đất, chiêng đà thu không.

Gương nga vành vạnh từ song.

Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.

175 Hải đường lả ngọn đông lân,

Giọt sương treo nặng, cành xuân la đà.

Một mình rạng ngắm tố nga,

18

Page 19: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Rộn đường xa với nỗi xa bời bời.

Người mà đến thế thì thôi,

180 Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

Người đâu gặp gỡ làm chi,

Trăm năm biết có duyên gì thay không?

Ngổn ngang trăm mối bên lòng,

Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

185 Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,

Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.

Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,

Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.

Sương in mặt, tuyết pha thân,

190 Nhạc vàng lãng đãng như gần như xa.

Liền mừng đón hỏi dò la:

"Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?"

Chú Thích:

Câu 171: Trướng hoa: bức màn có thêu hoa, chỉ buồng phụ nữ ở.Trướng rủ màn che (c.37)

Câu 172: Thu không: do chữ "sưu" không. "Sưu" là tìm tòi, "không" là trống

19

Page 20: Ban Truyen Kieu Co Nhat

không. "Sưu không" là đi xem xét, tìm tòi trong dinh trong đồn để soát lại có chỗ nào sơ khoáng chăng mà phòng kẻ gian. Sau quen gọi là "thu không" tức là hiệu trống, hiệu chuông bãi công việc vào buổi chiều, lúc gần tối.

Câu 175: Hải đường: thứ cây có hoa đẹp thường được dùng để ví với người con gái có nhan sắc.

Câu 175: Đông lân: láng giềng phía đông.

Câu 176: Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà: câu này bản Liễu Văn đường,

bản Kiều Oánh Mậu và bản Quan Văn đường (1925) đều viết   (treo) nhưng vì "tr" có thể chuyển ra "gi" nên các bản quốc ngữ có người viết là:"Giọt sương treo nặng, cành xuân la đà"có người phiên là:"Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà."Hồ Đắc Hàm phiên là:"Giọt sương tríu nặng, cành xuân la đà."Tản Đà thấy chữ "chíu" thì lấy làm đắc ý và giải thích: "Chíu nghĩa là treo bám vào đó mà làm ra cho nặng. Chữ này nguyên văn Nôm

là   các bản để là "gieo", là "đeo", đều là không sành nghĩa, duy trong bản của ông Hồ Đắc Hàm để là "chíu" thực tình đúng hơn.Tuy Tản Đà có ý kiến như vậy nhưng chúng tôi nhận thấy câu 176 nên phiên âm là:"Giọt sương gieo nặng, cành xuân

Câu 177: Bóng nga: bóng trăng (Nga: Hằng nga) người xưa tin rằng ở trên mặt trăng có ả Hằng Nga.

Câu 178: Rộn đường gần: óc bận rộn suy nghĩ về những việc mới xảy ra: gặp mả Đạm Tiên, Gặp Kim Trọng.

Câu 178: Nỗi xa: nỗi suy nghĩ về tương lai của đời mình, mối tình với Kim Trọng."Trăm năm biết có duyên gì hay không?"

Câu 180: Đời phồn hoa: đời sống hoa lệ, xa xỉ.

Câu 184: Tuyệt diệu: nói câu thơ rất hay.

Câu 186: Bên triện: bên lan can tạc hình chữ triện.

Câu 187: Tiểu kiều: người con gái nhỏ nhắn xinh đẹp.

Câu 188: Phong vận: dáng vẻ con nhà nề nếp, đoan trang.Thanh tân: còn trong trắng.

20

Page 21: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 189: Sương in mặt: trên mặt còn có sương in vết.Tuyết pha thân: trên mình còn có tuyết vương dấu.Cả câu tả cái cảnh nàng tiểu kiều đã trải sương tuyết ban đêm từ xa đến.

Câu 190: Sen vàng: chỉ gót chân người đẹp, bước chân của người đẹp. Đông Hôn hầu nước Tề rất yêu nàng quí phi họ Phan, đã cho đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà để cho nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ bộ sinh liên hoa" (mỗi bước nở ra một bông hoa sen).

Câu 190: Lãng đãng: có vẻ chập chờn, lờ mờ, khi xa khi gần. Câu này cho ta thấy tiểu kiều đã hiện lên như một bóng ma chập chờn trước mắt Thuý Kiều.

Câu 192: Đào nguyên: nguồn đào, nơi tiên ở. Theo bài "Đào hoa nguyên ký" của Đào Tiềm thì có một người đánh cá đã lạc vào một rừng đào, nơi tiên ở nên về sau người ta dùng chữ "đào nguyên" để chỉ cảnh tiên.

Thưa rằng: "Thanh khí xưa nay,

Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?

195 Hàn gia ở mé tây thiên

Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.

Thêm lòng hạ cố đến nhau,

Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

Vâng trình hội chủ xem tường,

200 Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.

緣Âu đành quả kiếp nhân duyên,

Cũng người một hội một thuyền đâu xa.

Này mười bài mới mới ra,

21

Page 22: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.

205 Kiều vâng lĩnh ý đề bài,

Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.

Xem thơ nức thỏm khen thầm:

"Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường.

Ví đem vào tập đoạn trường.

210 Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai."

Thềm hoa khách đã trở hài,

Nàng còn Ở lại một hai tự tình.

Gió đâu sịch bức mành mành

Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao.

215 Trông theo nào thấy đâu nào,

Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây?

Chú Thích:

Câu 193: Thanh khí: do câu "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" = vật gì cùng một thứ tiếng thì ứng hợp với nhau, vật gì cùng một khí loại thì tìm đến với nhau. Câu này ý nói xưa nay những người cùng một cảnh ngộ, cùng một tâm tình thì dễ thông cảm nhau.

Câu 195: Hàn gia: được dùng để chỉ nhà mình, ý khiêm tốn cho rằng nhà mình cũng nghèo nàn. Đây ý nói đến ngôi mộ, nơi yên nghỉ của Đạm Tiên.

Câu 195: Mé: phía, bên.

Câu 195: Tây thiên: đường bờ ruộng ở về một phía tây (nơi có mộ Đạm Tiên)("thiên": đường đi ở trong tha ma, đường bờ ruộng).

Câu 197: Hạ cố: ("cố" quay cổ lại nhìn) trông xuống, đoái tới.

22

Page 23: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 198: Hạ tứ: ban xuống. Người trên cho kẻ dưới gọi là "tứ".

Câu 198: Ném châu gieo vàng: ý nói ban cho những lời thơ hay, quí như châu báu vàng ngọc.

Câu 199: Hội chủ: người chủ hội, đây chỉ người chủ hội đoạn trường.

Câu 200: Đoạn trường: đứt ruột, đau lòng đến đứt ruột."Sổ đoạn trường": sổ chép tên những người có số đoạn trường, phải chịu sự đày đoạ ở đời.Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã dùng tới 17 lần chữ "đoạn trường" ở các câu 200, 209, 231,818, 869, 996, 1270, 1324, 1860, 1934, 2622, 2654, 2666, 2676, 2721, 2722, 3212.

Câu 201: Quả kiếp nhân duyên: quan niệm nhà Phật cho rằng cái quả của kiếp này là do cái nhân từ đời trước gây ra và cái nhân đời này là cái quả của kiếp sau sẽ hưởng thụ.

Câu 202: Một hội một thuyền: ý nói ở cùng một hoàn cảnh.

Câu 204: Câu thần: câu thơ cực hay.

Câu 206: Tay tiên: tay của ngươi có tài làm thơ, cũng có ý chỉ tay của người con gái đẹp.

Câu 208: Tú khẩu cẩm tâm: miệng thêu lòng gấm, ý nói lời thơ đẹp. Người ta đã ca tụng thơ Lý Bạch là: "Cẩm tâm tú khẩu Lý Thái Bạch chi văn chương".

Câu 211: Trở hài: quay gót hài đi trở ra.

Câu 213: Sịch: lay động mạnh.

Câu 216: Hương thừa: mùi hương thơm còn toả bay, chưa tan hết.

Một mình lưỡng lự canh chầy,

Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!

Hoa trôi, bèo dạt, đã đành.

緣220 Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!

Nỗi riêng lớp lớp sóng trôi,

23

Page 24: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn.

Giọng kiều rền rĩ trướng loan,

Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?

225 "Cớ sao trằn trọc canh khuya,

Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?"

Thưa rằng: "Chút phận ngây thơ,

Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.

Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,

230 Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.

Đoạn trường là số thế nào,

Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.

Cứ trong mộng triệu mà suy,

Phận con thôi có ra gì mai sau!"

235 Dạy rằng: "Mộng triệu cứ đâu,

Bỗng không mua não, chuốc sầu nghĩ nao!

Vâng lời khuyên giải thấp cao,

Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch sương.

Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,

24

Page 25: Ban Truyen Kieu Co Nhat

240 Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.

Chú Thích:

Câu 217: Lưỡng lự: lo nghĩ phân vân không biết quyết định ra sao.

Câu 217: Canh chầy: canh khuya.

Câu 219: Hoa trôi bèo giạt: hoa rụng xuông nước bị cuốn trôi đi, bèo bị sóng đành mà giạt trở lại. Ý nói nàng Kiều tự nghĩ duyên phận mình sau này cũng trôi nổi như cánh bèo, đoá hoa vậy.

Câu 221: Sóng dồi: sóng tung lên dìm xuống nhiều lần.

Câu 222: Đòi cơn: nhiều cơn.Cả hai câu 221-222 ý nói trong lòng có nhiều lo nghĩ như sóng dồi nhiều lớp, càng lo nghĩ lại càng đau đớn mà sụt sùi khóc lóc.

Câu 223: Giọng Kiều: giọng của Thuý Kiều. Các bản nôm KOM-QVĐ đều

viết   (kiều). Chữ kiều này có nghĩa là vẻ mềm mại đáng yêu nên xưa kia gọi con gái là a kiều.

Câu 224: Nhà huyên: chỉ người mẹ, dịch chữ "huyên đường"; chữ lấy ở bài Bá hề (Kinh Thi): "Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối" = mong được

cỏ huyên để trồng vào bên nhà phía bắc. Chữ "huyên"   nguyên nghĩa là quên, dùng với chữ "thảo" mới có ý nghĩa là cây quên sầu. Về

sau người ta lại viết chữ "huyên"   để chỉ cỏ huyên cũng gọi là "vong ưu thảo" hoặc "nghi nam". (sách thuốc xưa nói đàn bà "có thai" đeo hoa cây ấy thì sinh con trai).

Câu 226: Màu hoa lê: ý nói mặt nàng Kiều trắng đẹp như hoa lê mà khi khóc nước mắt làm ướt trông tựa hoa thấm mưa xuân. Mấy chữ này mượn ý từ câu: "Ngọc dung tịch mịch lệ lan can, lê hoa nhất chi xuân đới vũ" = Lệ giàn mặt ngọc lưa thưa, cành lê hoa chíu hạt mưa xuân đầm". (Tản Đà dịch).

Câu 228: Dưỡng sinh: cha sinh mẹ dưỡng, chỉ công ơn cha mẹ.

Câu 228: Tóc tơ: dùng để chỉ những điều nhỏ nhặt nhất, nói về công ơn cha mẹ, cũng phải báo đáp.

Câu 230: Nhắp: chợt ngủ đi.

Câu 233: Mộng triệu: điều chiêm bao thấy trong mộng báo trước sự việc sẽ xảy ra.

25

Page 26: Ban Truyen Kieu Co Nhat

Câu 236: Chuốc sầu: tự mua lấy cái sầu não vào mình.

Câu 238: Mạch Tương: mạch nước sông Tương, lấy tích bà Nga Hoàng và Nữ Anh nghe tin vua Thuấn đi tuần thú, chết ở đất Thương Ngô, gần bờ sông Tương. Hai bà đến đó kêu khóc thảm thiết, nên bây giờ thường dùng chữ mạch Tương mà ví nước mắt thương nhớ.

Câu 239: Oanh vàng ... bông liễu: hai câu này, ý nói Kiều nghe chim oanh hót, thấy bông liễu bay thì nghĩ đến tình duyên của mình.

26