dỊch lÝ ĐẠi ĐẠo phần cuối- chương...

110
CAO-ĐÀI ĐẠI ĐẠO CHIẾU-MINH TAM-THANH VÔ-VI DỊCH-LÝ ĐẠI-ĐẠO (CHƯƠNG 4-8) NĂM 2015 LƯU HÀNH NỘI BỘ

Upload: others

Post on 21-Aug-2020

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

CAO-ĐÀI ĐẠI ĐẠO CHIẾU-MINH TAM-THANH VÔ-VI

DỊCH-LÝ

ĐẠI-ĐẠO (CHƯƠNG 4-8)

NĂM 2015

LƯU HÀNH NỘI BỘ

Page 2: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

CHƯƠNG THỨ TƯ : LY

I- DẢI NGÂN HÀ (Bài 15)

Trong Quả Càn Khôn có rất nhiều dải Ngân Hà . Khi mới xuất ra từ Trục Thái cực các dải Ngân Hà như một tấm lụa dài vô tận.

Tấm vòng ngoài- Tấm vòng trong. Điểm đầu phát ra có dải giáp tròn, chu vi đến hàng tỷ tỷ năm ánh sáng. Có dải được phân nửa rồi đứt đoạn. Có dải giáp vòng nhưng đứt đoạn từ khúc ngắn. Dải Ngân Hà thật đa dạng.

Tầng trên từ Trung Giới trở lên có 36 dải Ngân Hà (kể cả các Ngân Hà vòng trong). Khi Tiên Thiên Khí xoáy theo vòng quay Trục Thái Cực, khí đã cô đặc đến gần như bột nhồi thì các tấm lụa Ngân Hà bị đẩy ra.

Mỗi Ngân Hà cách nhau dường như vô định. Nhắc lại từ nguyên tắc thanh trược mà ngay từ giai đoạn đầu của công trình Thiên Đạo Đại Tạo Càn Khôn, Đầu nguồn sanh vạn Pháp. Do phóng xuất từ Đầu nguồn Thiên Đạo nên hằng loạt các nguyên tắc (Pháp : Pháp Giới) thanh trược liền kề thành lập tạo thành trật tự gần tuyệt đối.

Các nguyên tắc được trộn lẫn nên hầu như khi đến vạn hữu không thiếu yếu tố từ cơ bản đến nâng cao đều có ở vạn hữu cả.

Giá trị thanh trược được bão hòa bằng hai nguyên tắc: *Nếu từ dưới Trục Thái Cực lên thượng đỉnh phải động tịnh loại trược, bảo

thanh cho khế hợp nơi Thượng tầng Càn Khôn. *Nếu từ trên xuống dưới Trục do công tác lợi sanh thì xuống đến đâu nhập trược

vào đến đó (chấp nhận các Pháp tại địa phương đó) cho đến vị trí muốn dừng cũng phải hợp với nơi đó.

*Nếu không hợp có hai trường hợp xảy ra : 1-Nhẹ hơn thì bị bay ra khỏi môi trường. 2-Nặng hơn thì bị hút trầm xuống thấp nữa. Nếu trái lại hai qui tắc này thì gặp

qui tắc cháy nổ (sét đánh). Trung tâm Quả Càn Khôn, Pháp rõ nhất. Tuyệt đối là Âm-Dương và Thanh-

Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và tầng giá trị được lập trong một dải Ngân Hà, bên trong hay bên ngoài, bên trên hay bên dưới. Hễ ở :

- Ngoài và ở trên là Dương. - Trong và ở dưới là Âm. *Dải Ngân Hà có bố cục lớn lao nhất trong Quả Càn Khôn. Dải Ngân Hà là

một tập hợp chứa các đĩa Thiên Hà . Một dải Ngân Hà có sức chứa lên đến hằng tỷ tỷ đĩa Thiên Hà.

*Các Ngân Hà phía ngoài Quả Càn Khôn có khuynh hướng ly tâm cao nên Quả Càn Khôn cứ giản nở. Công trình Đại Tạo càng lớn rộng mãi ra và trôi lăn tự do trong vô định.

*Tổng thể Quả Càn Khôn là hút vào và đẩy ra nên Đại công trình có hoại, có tái tạo, có lập mới, song hành và liên tục, cứ thế liên tục…

Thật là mênh mông đồ sộ công trình… !

Page 3: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

3

Ta có thể nói Quả Càn Khôn là Đại công trình sanh diệt tuần hoàn Âm- Dương- Tuần hoàn : Điểm khởi nguyên và điểm kết thúc dường như Có mà Không có.

Chân Không Vô Cực, Tiên Thiên Khí là hai thể « Có-Không », năng lượng chuyển hóa ra Càn Khôn mà không hề mất tính Chơn Nguyên.

Trục Thái Cực là cơn bão xoáy thể động còn Tiên Thiên Khí ở thể tịnh. Khí động chạm với tịnh làm cho khí phát sáng. Có khí là Quang hoặc quang Âm.

Mỗi đĩa Thiên Hà trong Ngân Hà lớn nhỏ không đồng nhau. Cũng do lực xoáy tròn của dải Ngân Hà, mỗi cụm xoáy tròn tách ra là một đĩa Thiên Hà.

Dải Ngân Hà trung tâm nó là Trục Thái Cực nên không có Mặt Nhật ở trong. Từ trong Trục Thái Cực xa thật xa mới có dải Ngân Hà thứ nhất, lần ra đến thứ hai …ba, tư…chí đến dải ngoại vi.

Từ Đầu Trục đến cuối Trục Thái Cực, cả trong lẫn ngoài trùng trùng, lớp lớp dải Ngân Hà.

Khi công trình Đại Càn Khôn động công đó, lúc phân khí đồng nhau- khắc nhẹ thì đẩy nhau- khắc nặng thì nổ nhẹ lên trên và ra ngoài, nếu nặng thì trầm xuống hoặc bị hút vào Trục.

Do phân nhóm nên trong tất cả Ngân Hà nào cũng có 5 nhóm, đó là : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Vậy các dải Ngân Hà Thượng Giới, Trung Giới, Hạ Giới. Những dải Ngân Hà ở giữa Quả Càn Khôn.

Ngân Hà Trung Giới có vóc thể lớn nhất, dài nhất vì phình nở ra và ở giữa trung Càn Khôn có một Ngân Hà lửa.

Ở các đĩa Thiên Hà, mỗi đĩa có một Mặt Nhật trung tâm, còn văng ra các Thái Dương Hệ. Mỗi Thái Dương Hệ có một Mặt Trời.

Do giản nở của Quả Càn Khôn nên các Ngân Hà càng ngày càng xa nhau, dẫn đến các Thiên Hà cũng dần xa nhau. Mỗi Ngân Hà là một Đồ Thiên Bát Quái- Quái Đồ này có Mồ Kỷ là lực từ trong Trục Thái Cực.

Từ Trục Thái Cực sanh ra các lực cho các dải Ngân Hà (Mồ Kỷ), tức là Ngân Hà do trực tiếp Thanh Đế- Huỳnh Đế- Bạch Đế- Hắc Đế- Xích Đế làm động cơ hình thành dải Ngân Hà.

Trong dải Ngân Hà tuy là một tập hợp các đĩa Thiên Hà nhưng Ngân Hà nào cũng có các đơn Hành tinh, hoặc nhóm Hành tinh, hoặc còn cát bụi…

Khi còn ở thể Ngân Hà, giai đoạn đầu chưa thành đĩa Ngân Hà, các khí cháy nổ xuất hiện hội tụ nên trong Ngân Hà tăng áp suất vận chuyển và tán phân. Nhiều sự tán phân mới có Thiên Hà, có nghĩa là Bát Quái Đồ Thiên của Thiên Hà được khai sinh nguyên lý. Song song lý thì Thiên Hà hình thành.

Vậy Trục Thái Cực là Đạo của Ngân Hà. Nói cách khác Ngân Hà nhận lực từ Ngũ Hành, là công trình thứ nhất của Càn Khôn.

Còn Thiên Hà nhận lực gián tiếp của Ngũ Đế qua Ngân Hà. Khi các tấm lụa Ngân Hà bị lực Thái Cực thúc thì trong Ngân Hà tạo thành các vùng xoáy nhỏ.

Page 4: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

TOÀN CẢNH DẢI NGÂN HÀ

HÌNH ẢNH DẢI NGÂN HÀ ĐƯỢC PHÓNG TO

Page 5: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

5

Hỗn độn sanh ra, mỗi vùng xoáy rời ra, dần xa nhau, mỗi cái rời thành đĩa Thiên Hà. Thiên Hà là một Bát Quái Đồ Thiên mà lực tuần hoàn tách ra từ Ngân Hà.

Thiên Hà là công trình thứ hai của Càn Khôn.

*Ngân Hà có đường chạy quanh Trục Thái Cực. Thiên Hà vừa chạy vòng xoáy quanh mình và lăn tròn quanh Trục Thái Cực. Dải Ngân Hà có chứa đĩa Thiên Hà mà đĩa Thiên Hà này có Thái Dương Hệ của

chúng ta ở, thuộc dải Ngân Hà của Nam Thiện Bộ Châu. Vị trí của nó nằm lưng chừng ở giữa gần Trục Thái Cực. Trong dải Ngân Hà này chứa khoảng 200 tỷ Hành tinh như Địa cầu của chúng ta. Và ở Nam Thiện Bộ Châu có khoảng 180 triệu dải Ngân Hà.

Nhiều đến như vậy mà chỉ có 72 Thái Dương Hệ với 72 Địa cầu có sự sống hữu hình như ở Địa cầu. Thật là hiếm đó !

Như trên đã nói, muốn có sự sống như Địa cầu phải có Khảm-Ly là điều kiện tối yếu của Cơ Sanh hóa : Phải đủ Ngũ Hành.

Do chúng sanh đi ra thám hiểm võ trụ từ địa bàn Nam Thiện Bộ Châu, tìm lên đầu Thái Cực thật khó nên không xác định được trong, ngoài, trên, dưới vì quá đồ sộ, mênh mông.

Gần đây chương trình không gian của loài người đã phát triển các tàu vũ trụ của Nasa, được đưa lên không gian liên tục với nhiều lộ trình khám phá khác nhau.

Mới đây con người lần đầu tiên nhờ kính tối đại đã phát hiện được lối đến tiếng nổ lớn đầu tiên sanh ra điểm đầu của vật chất và đo đạc hình ảnh hiện trường, chính xác tiếng nổ đó cách nay 13 tỷ 819 triệu năm. Hiện trường chỗ nổ trong Hư Không còn giữ y, không đổi đối với một lịch sử không gian còn nguyên bản.

Như vậy Đức Thái Cực Thánh Hoàng và Đức Diêu Trì Kim Mẫu được sanh ra cách nay 13 tỷ 819 triệu năm.

Trong quá trình thám hiểm không gian, con người đã thâu được một số hình ảnh của võ trụ, lỗ trắng không gian, nghĩa địa không gian, khu chế tạo Hành tinh-Hành tinh xuất xưởng- Hành tinh chuyển tải đi xa để định cư… !

Một mặt phẳng được xác lập là võ trụ công trường Trời Đất có chiều dài, sâu, cao của Trục Tung- Hoành đến vô hạn bằng nhiều tỷ năm ánh sáng.

Một dĩa Thiên Hà ở xa phải nhìn qua lỗ dung của một Ngân Hà . Ở gần thấy nó chỉ là một Ngôi Sao nhỏ, nhưng kỳ thật nó là một đĩa Thiên Hà có đường kính 1 tỷ năm ánh sáng và chứa khoảng 300 tỷ Hành tinh !

Theo nhận định của các nhà thám hiểm, Địa cầu ta không có hiện tượng đụng chạm nhau trong vòng 300 triệu năm nữa. Nhưng rất có thể Mặt Trời sẽ nuốt chửng hai Hành tinh là Sao Thủy, Kim Tinh và Trái Đất. Khi nuốt 3 Hành tinh này thì Mặt Trời nổ vì tăng năng lượng đột xuất. Thế là Thái Dương Hệ bị xóa sổ.

Điều này có thể xảy ra trong 200 triệu năm nữa. Hiện tượng này rất có nhiều trong Thiên văn. Đây là nhận định hữu vi, hữu thức, một chiều của con người còn ở Dịch Lý Đại Đạo. Công trình của Thầy tự động hóa các công đoạn do Âm-Dương vận chuyển mà Thầy làm Chủ Vô Vi và ngoài khả năng con người.

Page 6: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

II- ĐĨA THIÊN HÀ (16)

A- SỰ HÌNH THÀNH ĐĨA THIÊN HÀ

Các yếu tố : - Sự cô đặc và co cụm của dải Ngân Hà. - Các cuộc nổ khí trong Ngân Hà. - Sự ly tâm của Ngân Hà (phình ra).

Tạo cho Ngân Hà bứt đoạn từng cá thể. Mỗi cá thể lớn nhỏ vận hành đơn lực (hoàn chỉnh Hà Đồ) nhưng vẫn giữ quỹ đạo của Ngân Hà, là đường bay chung của các triệu tỷ Thiên Hà.

Một Ngân Hà có hàng tỷ đĩa Thiên Hà. Thiên Hà tuy quay độc lập nhưng nó vừa quay quanh chính mình vừa chạy quanh Trục Thái Cực. Nói khác đi là Thiên Hà là sự biến thể của Ngân Hà. Còn Đạo thì giữ y chẳng đổi.

Do quay độc lập nên mỗi Thiên Hà có Ngũ Hành. Mỗi đĩa Thiên Hà nào cũng có Mặt Trời ở trung tâm Thiên Hà.

Trong đĩa Thiên Hà, ngoài Mặt Trời lớn ở tâm Thiên Hà, còn có vô số Hệ Thái Dương. Mỗi Hệ Thái Dương có một Mặt Trời nhỏ hơn Mặt Trời trung tâm.

+ Một năm ánh sáng đi được 9.460.800.000.000 km. + Thiên Hà từ xa như một Đĩa xoay tròn có đường kính trung bình là 01 triệu

năm ánh sáng 9.460.800.000.000 x 1.000.000 = 94608. 1014 km. Các Thiên Hà ở ngoại biên Quả Càn Khôn ly tâm, xa lìa ra võ trụ, độc hành lang

thang, bềnh bồng vô định. Mỗi Thiên Hà xa nhau khoảng cách nhiều năm ánh sáng và chứa khoảng từ 100

tỷ đến 170 tỷ Hành tinh. Các Thiên Hà phía trong gần Trục Thái Cực, nhất là các Thiên Hà ở từ Trung

Giới trở xuống, dễ gặp các Thiên Hà mỏ quặng có nhiều khí cháy, dễ nổ vỡ tan, tạo vô vàn hiện tượng Thiên văn : Lỗ đen- lỗ trắng-lỗ dung…

Đạo sanh tới Thiên Hà gần như công trình Đại Tạo đã thi công được 70%. Các Thiên Hà đã thành lập ra Hành tinh Thái Dương Hệ, Mặt Nhật, Mặt Nguyệt. Đây là công trình cấp 2 của Càn Khôn. Các Đĩa Thiên Hà từ Trung Giới trở lên

Đầu Trục Thái Cực đều ổn định. Đại đa số quay chậm lại vì vật chất vốn nhẹ, nằm ở gần Trục hút yếu.

Các đĩa Thiên Hà từ Trung Giới trở xuống Cuối Trục thì không tình huống nào không xảy ra.

Các đĩa Thiên Hà ly tâm mất luôn trong Hư Không hoặc va chạm, sát nhập nhau đến quá lớn. Nó quay nhanh, lực bị dồn về Tâm rồi nổ, tạo thành một Thiên Hà chết. Có Hố Đen ở Tâm lực xoáy rất mạnh, một đầu hút vào, một đầu phía đối thổi vật chất ra, có khi nó thổi ra cả một Hành tinh. Hố Đen là tử thần của Hành tinh.

Một Hố Đen có thể nuốt và nghiền nát một Thái Dương Hệ (gồm Mặt Trời và các Hành tinh).

Page 7: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

ĐĨA THIÊN HÀ

Page 8: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

8

Lực xoay của Hố Đen đạt đến vận tốc khủng khiếp đến nổi ánh sáng cũng bị nó hút vào, hoặc hút cong đường đi của ánh sáng (nên nhớ ánh sáng đi 300.000km/s.)

Nhưng cũng có đĩa Thiên Hà đi vào một vùng toàn cát bụi. Lớp khí bụi gặp nhiệt phát sáng một khoảng trời. Các Hành tinh gặp hiện tượng này bèn thêm nhiên liệu mà to mập lên và có hiện tượng chuyển động chậm lại.

Vũ trụ bao la. Quả Càn Khôn rộng lớn vô cùng. Tài sản của Cha Trời vô lượng, vô biên. Mấy tỷ Ngân Hà, muôn triệu tỷ đĩa Thiên Hà. Thái Dương Hệ nhiều hơn cát ở trần gian. Hành tinh nhiều hơn một tỷ lần cát ở trần gian. Thế mà Quả Càn Khôn chỉ có :

+ Tam Thập Lục Thiên + Tam Thiên Thế Giới + Và hơn 200 tỷ đĩa Thiên Hà tại Nam Thiện Bộ Châu với hàng tỷ Thái Dương

Hệ mà chỉ có 72 Thái Dương Hệ có sự sống, trong đó có Địa cầu của chúng ta ở vị trí thấp thứ 68.

Vì vậy đối với Quả Càn Khôn, sự sống này thật vô cùng quý báu. Con người nên :

- Sống phải biết có Đạo toàn khối mà giữ gìn chung để tiến hóa. - Sống cho có đủ tố chất « Có-Không » của Trời Đất mới tồn tại.

Hôm nay chúng sanh gọi là văn minh đến đỉnh điểm nhưng lại sát hại, tận diệt chính mình đến đổi cả một Khối Đại Linh Quang của Cha Trời trùng trùng xuống thế mà cứu đời mạt kiếp. Thế mà chúng sanh vẫn khư khư cho mình là hay, giỏi, để có rồi rời Cha, chối Cha và giết Cha.

Biết rằng giết Cha, Cha không chết và Cha vẫn thương yêu, mãi mãi theo chúng sanh và chờ đợi chúng, đỡ tai ách, kiếp nạn cho chúng.

Cha chỉ mong chúng sanh được một sự tồn tại trong an lành của Cha Trời. *Chúng sanh hôm nay, trong kỷ nguyên này đã tự tạo một kiếp nạn là làm mất

cân bằng trong Cơ Tạo Hóa. Đáng lẽ phải nhận lấy cơ hủy diệt gần như không còn gì trên Hành tinh này !

Cơ Sanh hóa trên Hành tinh chỉ còn trông vào sức Đại Tạo của Cha Trời. Chỉ có Cha Trời mới có thể cứu thế, cứu các con của Người. Và Đấng Tạo Hóa đã đến rồi, đã đến từ lâu rồi cùng với vô lượng Phật Tiên mà

những người chịu tìm đến Cha Trời, ôi sao quá ít ỏi !

Đức Thái Cực Thánh Hoàng đã dùng huyền vi Tạo Hóa là : Cho Âm-Dương bất tương để :

+ Địa cầu từ từ chuyển hóa cân bằng trở lại. + Giữ Địa cầu khi chuyển hóa, tái tạo và không sát phạt Cơ Sanh hóa nhiều. + Vận hành đưa Địa cầu vào quỹ đạo mới (không khác quỹ đạo cũ lắm). + Thay đổi một ít vị trí mặt phẳng Địa cầu để đạ được vị trí tối ưu hơn trong

Thái Dương Hệ.

Page 9: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

9

+ Ức chế và bình ổn hấp lực để Địa cầu khi chấn động toàn phần không bị xé vỡ ra.

+ Kéo dài sự chuyển hóa tái tạo. - Ngăn chận và tiêu trừ ở bên ngoài vũ trụ các từ lực song từ của Đại Đạo khi

Địa cầu đang ở kỷ nguyên tái tạo. - Dùng Đạo Pháp Càn Khôn giáo dục chúng sanh sống cho hợp Đạo Trời, không

phá vỡ cấu trúc của Trời Đất và biết cách tiến hóa. - Ban bố Thiên Ân, tiêu trừ tai ách, nghiệp quả của chúng sanh bằng cách thay

đổi bầu khí quyển trở thành thanh khí, loại bỏ tạp khí vốn chứa dữ liệu cho nhân quả. - Công trình tái tạo Địa cầu để bảo vệ Cơ Sanh hóa của Hành tinh trong Thái

Dương Hệ này do chính Đại Từ Phụ phát niệm và Đức Di Lặc Lạc Long Quân làm Chủ vận hành thay Tạo Hóa, tái tạo Hành tinh mà Quốc Phụ vốn chịu trách nhiệm từ thuở khai nguyên nhân loại.

*Một nguyên nhân nữa đưa đến sự hủy diệt và xóa sổ của Hành tinh chúng ta đó là Mặt Trời sẽ nuốt Địa cầu.

* Các nhà Thiên văn học đã có nhiều dữ liệu nói về các Thái Dương Hệ trong võ trụ. Do sự gần nhau quá của Mặt Trời và các Hành tinh- Trong khi Mặt Trời lúc nào cũng là Hành tinh lớn nhất, động nhất, lực gì cũng trội hơn hết. Vì thế đến một lúc nào đó nó đốt cháy hết vật chất của chính nó thì áp suất rất lớn, dồn nén vào tâm làm tăng hấp lực đột xuất, đồng thời bẻ gãy cân bằng toàn Thái Dương Hệ. Lúc đó Mặt trời sẽ hút lấy Hành tinh gần nhất vào để lấy nhiên liệu phát tán tiếp.

*Nguy cơ này khiến cho các nhà Thiên văn sợ nhất Mặt Trời sẽ hút lấy Thủy tinh kề bên –rồi Kim tinh. Hai Hành tinh này nếu thống nhất vô Mặt Trời rồi thì nó sẽ to ra sát bên Trái Đất, sẽ gây ra nguy cơ cao. Họ đoán Thiên văn theo điều này, nếu có thì cần phải một thời gian là gần 200 triệu năm nữa.

*Hành tinh của ta ở xa các Thiên thể khác. Có 2 đĩa Thiên Hà tuy gần mà còn xa lắm, cũng đang tiến đến Thái Dương Hệ, nhưng không chắc là nó có đi vào vùng không gian chung không ? Và có đi vào thì cũng cần vô lượng thời gian, vì hiện tại nó còn cách xa đến 2 tỷ năm ánh sáng . Vận tốc chậm !

Phần vô hình là Khối Đại Linh Quang thể vô tướng, là từ lực sanh hóa và bảo vệ Cơ Sanh hóa toàn khối Càn Khôn. Ngân Hà, Thiên Hà, Thái Dương Hệ là hữu vi bản thể « Vô hữu » của Tạo Đoan. Công trình Đại Tạo của Thầy. Thầy làm Chủ, lập trình Xây dựng – Tái tạo – Bảo vệ, nằm hoàn toàn trong Đức Hóa Sanh của Thầy nên không gì mà Thầy không làm được. Chỉ có sự công bình ức chế Thầy thôi.

Cho nên nhân loại đã tạo ra thì phải chịu hậu quả. Chỉ khi tất cả biết sai đồng cầu Thầy cứu độ thì Thầy mới bố hóa Thiên Ân. Đừng tưởng rằng Thầy ở xa Địa cầu.

Từ Bắc Đẩu đại hùng đến ta phải qua khoảng cách 49 năm ánh sáng. (9.460.800.000.000 km/năm x 49 = 46.357.920.000.000 km)

Page 10: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

10

46 ngàn 357 tỷ 920 triệu cây số. Có nghĩa là Thầy ở cách chúng ta ngần ấy, đồng nghĩa rằng Trục Thái Cực của Thầy (nét sổ xuống của THẬP TỰ) không còn bao xa nữa là hết Cuối Trục. Khoảng cách này mà không nói ra mà chúng sanh sử dụng nhơn kiến làm tri thức thì lầm lắm. Nên nhớ rằng Thầy là thinh thinh Vô Sắc Giới Chân Không, ở mọi nơi thì chỗ chỗ đều có Thầy tại chỗ và trong ta mà hằng tại.

Chỉ bỏ nhơn kiến sử dụng Chơn Thiên kiến thì ta và Thầy chung điểm đó ! Chúng sanh chỉ một lòng, một dạ hướng về Thầy, về Phật Di Lạc thì sẽ được

cộng đồng Đại Linh Quang tích cực hỗ trợ, sự sống được bảo tồn ngay tức khắc. Chỉ trừ khi chúng sanh khư khư vô Đạo Đức thì nhân loại bị tiêu diệt bớt là lẽ

đương nhiên. Mọi cái do ở chúng sanh !

Dịch Lý Đại Đạo để bảo hòa « Vô hữu », bình ổn Thiên cơ Đại Đạo, là phương tiện thô giúp Thầy và Khối Đại Linh Quang trong việc khai hóa kỷ nguyên, bảo tồn sự sống của Hành tinh.

Dịch Lý Đại Đạo không xa lìa « Vô hữu ». Vô hữu song lập. Nhân loại nương theo Dịch Lý Đại Đạo để đến với Chơn Tể tuyệt đối không sai lệch.

Dịch Lý Đại Đạo không rời « Vô hữu » nên chỉ sử dụng Thiên kiến Bát Nhã mà tả ra.

Dịch Lý Đại Đạo chỉ khác Dịch Lý đời là dùng nhơn trí nói phần hữu vi- chưa đi hết 50% Cơ Tạo Hóa vì bỏ hẳn hoàn toàn phần Diệu Pháp Chơn Như.

Cho nên muốn hiểu Dịch Lý Đại Đạo phải dùng Bát Nhã Thiên Tâm (phải có quá trình hiệp Đạo) mới có sự đồng tình.

Thế nên địa bàn chúng sanh là môi trường nhân trí. Dịch Lý Đại Đạo là mãi ở trong chỗ Đại Đạo Chiếu Minh không thể phổ

truyền. Trở lại vấn đề, nếu khi Mặt Nhật đốt toàn thể khối vật chất của chính nó đã hóa

lửa hẳn rồi thì co lại. Sao lửa này trở thành chất lỏng của lửa. Áp suất làm chúng chuyển động cực kỳ mạnh và nhanh chóng nổ lớn, nổ nhỏ xuất hiện. Áp suất lấp lực tăng cấp số, nó lớn phình ra, áp lực hấp lực nén dồn về tâm.

Hành tinh mà nó lôi trước tiên là Sao Thủy. Lửa đang cháy mà thêm củi vào thì Mặt Nhựt được thêm diện tích. Thể tích càng to kếch sù ra chung quanh thì nó sẽ nuốt cái kế là Sao Kim…Rồi Mặt Trăng và có thể nuốt Địa cầu của ta !

Nhận định này căn cứ theo Thiên văn của các nhà thám hiểm. Rất có cơ sở sau khi ăn no quá nó bội thực vì quá to, Mặt Nhật sẽ nổ thân nó ra, vung vảy khắp Hư Không ; Hoặc ly tâm tách ra một Hành tinh lửa khác và tạo lập một trật tự cân bằng cho một Hà Đồ cố hữu.

Trong chỗ Càn Khôn là vạn hữu đổi dời, là nhân quả nối chuyền, là sanh diệt tuần hoàn trong niệm Đại Tạo của Thầy.

Thầy là Dương, hình thành song song với Đại diệt là Âm. - Càn Khôn là Âm mà Vô Cực là Dương. - Càn Khôn là Có mà Vô Cực là Không.

Page 11: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

11

- Càn Khôn là sanh diệt, Vô Cực vô sanh, vô diệt. - Càn Khôn là sanh diệt tuần hoàn- Vô Cực thinh thinh Vô Pháp Giới.

Đó là phần tri thức nhơn trí như tôi đã trình bày ở trên. Hiện Địa cầu đang dần ổn định ở vị trí tương đương với quả Địa cầu 67. Dĩ nhiên Địa cầu tự chuyển hóa tái tạo. Nó có thông số mới thì mới ra khỏi chỗ cũ được. Nó mới thì sẽ loại bỏ tất cả cái không còn thích hợp với nó.

Nó dùng Âm-Dương, thanh trược làm tiêu chuẩn cơ bản thanh lọc Cơ Sanh hóa của nó.

- Trược quá nặng đến nỗi phải xé đất hút vào (động đất mà chôn vùi). - Dùng núi lửa để phóng suất Dương năng lượng. - Dùng siêu bão để tẩy trược mà cân bằng khí quyển.

Thành lập Đại Đạo giáo dục Thiên Đạo, triệt tiêu nhơn trí, nâng cao tinh thần Quốc độ. Giữa Quốc độ và Cơ Sanh hóa là Hồn-Xác cân bằng, ổn định lập lại trật tự Càn Khôn tại Nam Thiện Bộ Châu.

Vậy đó nên cái Tính của người (nhơn trí) và cái Tính của Trời (Thể Tánh trí –Bát Nhã trí) khác xa rồi vậy.

Quả Địa cầu 67 ở dải Ngân Hà phía ngoài, cách rất xa Thái Dương Hệ của ta nhưng do Đại Từ Phụ cứu kiếp nạn của chúng sanh nên đưa Địa cầu vào vị trí mới bằng cách phát niệm tái tạo bất tương Âm-Dương, chận đứng sự nổ hấp lực.

Khi Âm-Dương ngưng hoạt động, lợi dụng sự chuyển động tự do trong không gian mà đưa Địa cầu lên mặt phẳng không gian khác để bảo vệ Cơ Sanh hóa không bị diệt vong.

Cơ Thiên biến động ít, Thiên công tái tạo bằng Âm-Dương tự động hóa công trình, bình ổn tuần hoàn Thái Dương Hệ.

Trong vòng 100 năm trở lại đây sẽ hoàn tất sự tái tạo này và Địa cầu sẽ vào cơ

tái tạo y như ban đầu khai sanh ra nhân loại.

Ngày nay Địa cầu ta có vị trí y như 67 vì ta và Địa cầu 67 xa kia có cùng một thông số Thiên luật và cùng một mặt bằng không gian.

Hiện ta không ổn định vì ta mới vào vị trí mới, mọi việc đang cần là đào thải và thanh lọc Âm-Dương.

Khi mà Âm-Dương hoạt động bình thường là lúc thông số cân bằng được xác lập, Địa cầu sẽ sụp và kéo theo Đại Hồng Thủy.

Địa cầu lệch trục quay, biển cả đổi dời : Núi trở thành biển. Địa cầu lệch Trục quay là Lạc Thư đổi hướng Tâm trung. Lạc Thư Thiên Di, Mồ Kỷ Thổ hội tụ nơi nào thì Thiên cơ xuất lộ ở đó. Chơn Khí Đất Trời hội tụ nơi đó- Sinh khí phước đức Tạo Hóa hội tụ nơi đó. Nơi đó ở đâu ? Chỗ nào trên Hành tinh này ???

Page 12: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

12

Trước khi tôi muốn viết điều này, Thiên-Địa-Nhân càng kết mạnh. Không phải vì Danh, không phải lo phạm Thiên Điều mà xuất phát từ sự thật, tôi biết lòng Tạo Hóa thương yêu vô vàn đối với chúng sanh.

Thầy đã lâm trần cứu kiếp nạn và tái tạo lại chỗ ở cho chúng sanh, lập thành nguồn phước đức nối kết Sinh khí Địa cầu với năng lượng Tạo Hóa, không cho bứt đoạn để Thiên-Địa tuần hoàn ổn định. Lòng Trời như vậy, đã làm rồi mà chúng sanh cứ lơ láo, hung dữ thêm lên, ngay chỗ tu hành mà còn đầy thế tục !

Muốn cất cao giọng nói, muốn viết mạnh câu văn để đánh thức lòng nhân thế. Ý mình đã náo động Tam Thiên mà lòng người dường như gỗ đá ! Ta cũng lấy lòng Tạo Hóa theo sát chúng sanh, nguyện kề tai nói thật : Thầy và cả Khối Đại Linh Quang vì quá thương ta, ở cạnh sát bên ta, đã tu sửa

Trái Đất cho ta, chỉnh đốn lại chủ quyền Quốc gia cho ta, lập thành Đại Đạo cho ta, sửa lại Lạc Thư giao cho ta nắm giữ để dẫn độ nhân loại sau này.

Ấy thế mà ta lại ngẩn ngẩn, ngơ ngơ. Cái bệnh vô phép, vô thiên thật là khó bỏ. Thương ôi vô hạn ! Mà giận cũng không cùng ! Lòng người vô thủy, vô chung, ngủ say oằn oại trong giấc mộng điên khùng giữa Càn Khôn đầy tình bác ái !

Thương Cha Trời đứng chờ con tỉnh giấc để đưa con về chỗ an toàn. Con chưa yên, Thầy đâu nỡ bỏ về Ngai Vị. ! …Muốn hãn tường cuộc diện tương lai, Phải xem hình thể Đạo Cao Đài tuyên bố đó… Lời dạy này đã lâu rồi. Việc Thầy cần làm, Thầy đã ân ban rồi. Nay ta chỉ nói theo, dắt tay chỉ Đạo thật lòng. Ngó cho kỹ, thấy cho rành, kẻo

theo Thầy thì đã trễ ! B-THIÊN NHẤT SANH THỦY

Qui luật cơ bản của Tạo Hóa là khi chiết ra một phần tử sanh hóa thì cái trước sanh đó là : THIÊN NHẤT SANH THỦY.

Trái Đất hình thành khi Càn Khôn giao hiệp thì cũng Thiên Nhất Sanh Thủy. Chỗ cao của Địa cầu là dãy Tây Tạng và Hymalaya, đươc coi là nóc nhà thế giới.

Nơi mà nguồn nước tế phân xuống Địa cầu, Việt Nam ta có dòng sông Cửu Long có tính đặc thù :

Từ chỗ cao nó chảy về Việt Nam. Đến Tây Ninh nó đã bồi đắp thành đồng bằng Nam Bộ. Lượng nước rất lớn được đưa về việt Nam bằng hai lối :

- Lối phía trên mặt đất là dòng Cửu Long Giang. - Lối phía dưới lòng đất cũng hướng về Việt Nam và cuối cùng chính nó bồi đắp

ra đồng bằng Nam Bộ Việt Nam. Lượng nước cực kỳ lớn đổ về đây thoát ra biển bằng 9 cửa sông, trước khi ra

biển tách làm hai ngõ là Tiền Giang và Hậu Giang.

Page 13: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

13

+ Nhánh Tiền Giang chảy tách ra các cửa : Cửa Tiểu, Cửa Đại, Ba-lai, Hàm-luông.

+ Nhánh Hậu Giang chảy tách ra các cửa đồng dẫn nước ra biển.

Đây là Thiên Nhất sanh Thủy, mang sinh lực Hành tinh, kết tụ Chơn lý Đất Trời tại Việt Nam, cụ thể là Hà Tiên và Chơn Thủy đó có tại Tây Ninh trước nhứt.

Ở Tây Ninh, Thiên Nhất Sanh Thủy, là Khảm cung. Vậy cho ta biết Trục Địa cầu hiện tại rồi đó. Có Bắc tất phải có Nam (cung Ly),

có Đông (Chấn), có Tây (Đoài). Bát Quái Lạc Thư Đồ tại Hà Tiên. Các cung Thầy đã lộ ra rồi và mỗi mỗi đều có Chư Thần trấn giữ. Đất Tổ Việt Nam, Thiên định đã lâu, nay lộ bày giúp đồng bào tầm học để tô bồi

cho ra chỉnh thế trang nghiêm, trí huệ Quốc gia. Quốc độ là nguồn Đạo Đức, suối yêu thương không ngừng cho nhân loại- Là nơi

hội tụ Thiên-Địa-Nhân. Con người Việt Nam là hướng Đạo đầy đủ Tài Đức. Quốc độ sẽ tiến về hướng Nam cung Ly, ứng số 9 (vật chất rất lớn), có thể tới

Malaya, vịnh Campost, Thái Lan. Nếu lập thành ban địa chất truy xét địa hình Lạc Thư sẽ rõ lãnh thổ tân lập ngay.

Việt Nam chắc chắn thành Quốc độ, là một siêu cường quốc về Tài Đức. Mọi tinh hoa Trời-Đất-Người đều dồn về Việt Nam mà hình thành một Quốc độ

chưa từng có ở trần gian. Âu cũng là khổ tận cam lai, là nguồn yêu thương giải khổ cho chúng sanh. Ta mỗi mong sao có một Chơn Nhân xuất lộ, ứng hóa Thiên cơ, dẫn độ nhân loại

quy nguyên, Đạo Đức trùng hưng, y như móng nền Tạo Công đã lập với tiền đồ để sẵn.

Trong Thái Dương Hệ của chúng ta có 9 Hành tinh, trong đó có Mộc tinh và Thổ tinh là hai Hành tinh lớn tầm cỡ trong Quả Càn Khôn nhưng cũng là hai Hành tinh chứa khí độc.

Trong Quả Càn Khôn vạn lượng đó, có nhiều Hành tinh đến đổi cát sông mà ít hơn Hành tinh trong Trời Đất. Vậy mà chỉ có rất ít Hành tinh thích hợp cho Cơ Sanh hóa như Trái Đất ta đây.

Đại Từ Phụ đã có nói : « Rồi nó cũng sẽ bị tiêu hủy… » .

Trong Thái Dương Hệ của chúng ta có hai Sao Chổi cũng có quỹ đạo quanh Mặt Trời . Quỹ đạo nó hình elip và nó đã đi qua rồi.

Về Thiên văn Địa cầu đang đến chỗ lập trình tái tạo các khâu. Nếu con người biết đứng bên Tạo Hóa thì tất cả đều bình an. Trong đó Đấng lo nhất là Quốc Phụ Lạc Long Quân, Phật danh là Di Lặc Tôn

Vương Phật, là Đấng mà Đại Từ Phụ đã giao Cơ Sanh hóa Địa cầu cho Quốc Phụ Lạc Long Quân và Quốc Mẫu Âu Cơ.

Page 14: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

14

Làm Cha Mẹ nhân loại, kỷ nguyên này Quốc Phụ thay quyền Tạo Hóa lập thành CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO, vừa là Ngọc Đế Địa cầu (vì Quốc Phụ Đắc Phật trước nhất trong nhân loại), vừa là Giáo Chủ Cao Đài và Giáo Chủ Tam Giáo về hai mặt Vô Vi và hữu hình.

Đồng bào ta đang bị nô lệ trầm kha, Quốc Phụ đánh thức ta :

Từ đây nòi giống chẳng chia ba, Thầy đến đem con lại một nhà. Nam, Bắc xong rồi ra ngoại quốc,

Chủ quyền Chơn Đạo một mình Ta.

Và Người quỳ xin Đức Đại Từ Phụ cho lập Cao Đài Phổ Độ song song với Cao Đài Đại Đạo, từ đó giống Rồng Tiên có chỗ phổ thông mà lập Đức.

Từ thuở nước Nam chẳng Đạo nhà, Nay Ta gầy dựng lập nên ra. Ví dầu ai hỏi sao bao nã? Rằng trẻ roi theo sẽ hóa Già. (Tu thì Đắc Đạo).

Quốc Phụ để lại hai dấu vết cho con cái Người theo đó mà tìm đến với Người, đó là :

1-Dấu vết thứ 1:

Quốc Phụ và Mẫu Âu Cơ sanh cái bọc 100 con. Ý Quốc Phụ thay Trời làm Cha Mẹ Cơ Sanh hóa Địa cầu. Nhân loại là đồng bào người Việt Nam là giống dân do trực tiếp Quốc Phụ và Mẹ Âu Cơ sanh ra để làm nòng cốt Đạo Đức cho đời Thượng Ngươn hôm nay. Số 100 đó là :

- Tổng số của Hà Đồ : 45 = (1+2+3+4+5+6+7+8+9)

Số hóa năng lượng của Trời (Càn). - Tổng số của Lạc Thư là : 55 = (1+2+3+4+6+7+8+9+15)

Số hóa năng lượng của Địa cầu (Khôn). Quốc Phụ thị hiện sanh 100 = 45 + 55 là Trời Đất giao hiệp sanh cơ Sanh hóa và

sanh Khảm Ly Ngũ Hành (Làm Ngọc Đế Giáo Chủ). Thông điệp này cho đến hôm nay được giải mã thì Quốc Phụ đã thành lập Cao

Đài Đại Đạo rồi (Tìm xem Thông điệp Quốc Phụ Lạc Long Quân, đồng tác giả).

2-Dấu vết thứ hai :

Khi Quốc Phụ đến có người hỏi tên …Đáp tên : A-Ă-Â. Xem trong các chữ : “Lạc Long Quân và Di Lặc” thì rõ ngay, không phải nói

ra đây là lộ Thiên cơ hay một thứ gì khác, vì tất cả đã lập trình.

Page 15: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

15

Mỗi lập trình đề ra, lấy kết quả làm tiêu điểm hình thành, mà đã lập trình Thiên cơ đang vận hành thì có gì là phản Đạo khi mà rõ Đạo.

Điều lo nhất là ta ngu muội trước Đại Tạo của Tạo Hóa, ta ngu muội trước việc làm của Cha. Thậm chí Cha Lạc Long Quân ở hằng tại bảo vệ, ngăn tai ách, xin Tạo hóa xá tội cho đồng bào, lập thành Đại Đạo mà ta chưa từng biết đến- chưa từng tìm đến mừng Cha mà lạy Phật. Nặng hơn hết bởi không rõ Máy Trời mà ta vô tình phản lại ý Cha mang đại tội nghịch Thiên.

Quốc Phụ đã lập đại nguyện : Đạo không thành, Quốc Phụ không về Quốc độ. Đại Nguyện này khiến Đại Từ Phụ cũng lâm trần- Và cả Khối Đại Linh Quang cũng đồng hành giáng hạ. Và Đại Từ Phụ đã ban Sắc Chiếu quy nguyên, theo Thiên cơ vận hành.

Tất cả do chúng sanh biết nguồn cội thì quay đầu, trái lại sẽ bị diệt vong. Đường sanh tử còn trùng trùng, nẻo luân hồi khó dứt.

Ân Trời kề cận kéo mời mà không nhận. Ôi thật xót đau cho nhân thế!!! III- THÁI DƯƠNG HỆ (Bài 17)

Một vùng nguyên liệu để tác tạo Thiên Hà. Thiên Hà sau khi hình thành rồi biến thể, thay đổi cấu trúc, tế phân ra nhiều cơ

lực. Từ Thiên Hà mà hình thành các cụm xoáy. Xoáy ấy là do Đạo sanh hằng loạt cụm xoáy.

Nhiên liệu lớn thì Mặt Trời lớn, trái lại thì Mặt Trời nhỏ. Mặt Trời nào cũng có các Hành tinh quay quanh. Các Thái Dương Hệ ở Châu Dương thường có ít Hành tinh quay quanh hơn tại

Châu Âm. Mỗi Thái Dương Hệ mà Hà Đồ hoàn chỉnh phải đủ 8 Hành tinh trở lên. Đạo của Thái Dương Hệ chiết sanh từ Thiên Hà. Thái Cực sanh hóa đến Thái

Dương Hệ là công trình cấp 3. Sau hai công trình Ngân Hà cấp 1 và Thiên Hà cấp 2.

Xin nhắc lại : 1- Đạo ở Ngôi Thái Cực (vô hình, vô tướng). 2- Thái Cực động niệm Đại Tạo Càn Khôn. 3- Sanh Tam Thanh .(Dự thảo Đồ án hình thành Âm-Dương chủ vận trung hòa,

lấy Sinh-Diệt tuần hoàn nhất thể. Tam Thanh động chuyển, Đạo tiếp tục chuyển xuống…)

4- Đạo tiếp chuyển từ Tam Thanh, Trục Thái Cực khởi vận hành tiếp theo, phương án Đại Tạo đã lập trình.

5- Đã hình thành cơ bản cho công trình tạo phân chất xúc tác cho công trình hội tụ và phân 5 loại truyền Đạo lực vào 5 loại, thành 5 Hành xúc tác là :

- Hắc Đế : Thiên Nhất sanh Thủy. - Xích Đế : Thiên Nhị sanh Hỏa. - Thanh Đế : Thiên Tam sanh Mộc.

Page 16: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

16

- Bạch Đế : Thiên Tứ sanh Kim. - Huỳnh Đế: Trung Ương Ngũ sanh Thổ.

Năm Hành mà đủ thì đạo sanh rất hoàn chỉnh và hoàn Đạo cũng căn cơ hơn. + Ngũ Hành là 108 nguyên tố ở dạng hỗn độn Khí động Tiên Thiên . Hỗn độn Khí này tự tách và phân chất để cuối cùng trong chỗ bao la rộng lớn mà

hội tụ thành 5 nhóm mang tính điện tử dồi dào nên mỗi nhóm phát huy đặc tính tương giao làm cho động càng động, không ngừng nghỉ. Nó tự tạo năng lượng cho công trình Đại Tạo. + Ngũ Hành coi như là Ngôi 3 từ Thái Cực rồi Tam Thanh. Vị trí tối ưu cao đại của Ngũ Hành là cõi Niết Bàn. Cõi này dưới cõi Tam Thanh, ở Thượng nguồn của Càn Khôn Đại Tạo. + Người ta kính Ngũ Hành như 5 Năm Ông Lão. Mỗi vạn hữu để hoàn chỉnh phải có đủ Ngũ Hành. + Hành Thổ là Hành tinh, là đất đai, là thổ cư, là đại địa bàn chứa bốn Hành kia, ở trong Thổ mà sanh ra. + Kể cả như Mặt Nhật là Hành tinh lửa, thuộc Hành Hỏa nhưng bản thân Hành tinh lửa này vẫn là Trung tâm Mồ Thổ, tính năng Huỳnh Đế cư tại nên gọi Huỳnh Đế là Chúa Tể 10 phương. + Một Thái Dương Hệ là phần tử thuộc về đĩa Thiên Hà, gồm một Mặt Trời ở giữa các Hành tinh, chạy quanh Mặt Trời. Hành tinh nào lớn quá thì tách thân ra một hay nhiều Vệ tinh (Mặt Trăng). + Mỗi Thái Dương Hệ được tách ra từ lực ly tâm của đĩa Thiên Hà. Nhờ lực quay của đĩa Thiên Hà mà Ngũ Hành phân thanh trược và tự chia Thiên Hà làm triệu ỷ Hà Đồ nhỏ hơn. Mỗi Hà Đồ là một Thái Dương Hệ đó. Đạo sanh theo chiều vạn hữu. + Trung tâm của Đại Đạo kỳ dư phải nói đến lửa. Như Ngôi Thái Cực là tinh hoa của Đất Trời, được sanh ra từ một Đại công trình ở trung tâm toàn lửa. Đến Ngân Hà cũng là trung tâm trực tiếp từ lửa của Ngũ Hành. (Trong lửa mà đủ Ngũ Hành). + Hành tinh lửa (Nhật cầu) là nơi mà 108 nguyên tố tập kết nhiều nhất, bị dồn ép, đè nén ở mức độ khủng khiếp, đến đổi cọ sát mà thành lửa, tạo áp suất gây nổ và tách thể. Tinh hoa của Ngũ Hành thoát ra từ sự phá vỡ của tiếng nổ. + Ở đĩa Thiên Hà thì lửa được tế phân đều, rải rác tại các trọng điểm của lực xoáy, cho nên một Ngân Hà có đến hàng triệu quả cầu. Mỗi Quả cầu tách ra là một Thái Dương Hệ .

Một Hành tinh đều có 3 yếu tố : . Khí quyển nhẹ bọc ở ngoài. . Địa quyển. . Rồi Tâm cái lõi giữa của Hành tinh nào cũng là lửa cả. Nó âm ĩ chuyển luân trong lòng Hành tinh.

Page 17: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

Ảnh THÁI DƯƠNG HỆ

THÁI DƯƠNG HỆ CÓ HÀ ĐỒ HOÀN CHỈNH

Page 18: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

18

Nếu Hành tinh nào có chuyển động lăn quanh, chạy quanh càng mạnh thì biết lửa trung tâm càng lớn. Lực càng dồn về Tâm thì lực ức chế Trung tâm lửa càng to, áp suất càng lớn lên, cuối cùng là nổ, trong khi núi lửa làm triệt tiêu áp suất trung tâm và giữ quân bình cho Hành tinh. + Lửa ở ngoài có nghĩa là lửa hóa hoàn toàn Hành tinh. Nó tạo ra một nguồn năng lượng tầm cỡ Trời Đất, phát huy cao điểm và trung bình liên lục cho toàn khối. Điều khiển và chi phối toàn khối bằng nguồn năng lượng lửa này.

- Đức Thái Cực là ánh sáng của lửa. Ánh sáng cao cấp nhất của lửa chứa đầy đủ tinh hoa của 108 nguyên tố.

- Trong Ngũ Hành : Hành Hỏa có khả năng lấn áp 4 Hành kia và năng lượng của Hành Hỏa được Thiên Địa sắp đặt ở vị trí : Đệ Nhị Sanh Hỏa, trong khi nước chiếm thượng bảng là Trời sanh Thủy trước nhất.

- Có Thủy, có Hỏa rồi mới có Mộc và Kim. - Tứ tượng này ở ngay trong Hành tinh mà tương giao cuộn Hành tinh vào cuộc

nên tính Thổ dính vào 4 chất Kim-Mộc-Thủy-Hỏa nên có đủ tứ quý, đủ tuần hoàn viên mãn. Sự tiếp chuyền mãi mãi là vậy đó. Tất cả Thái Dương Hệ công trình cấp 3 đều giống nhau, chỉ khác ở 2 nguyên tắc:

+ Ở cao vì nhẹ - Ở ngoài cũng vì nhẹ hơn. + Ở dưới do nặng- Ở trong vì nặng nên bị hút vào. Vóc dáng lớn nhỏ khác nhau là do chất liệu Khí tập trung. Có khi là Khí nhiều

mà khác chất. Thậm chí 108 nguyên tố khi phân chất và tách khí thì có một hỗn hợp chất là vật

chất đen. Nó tạo thành cột công trường sản xuất các Hành tinh đen, nằm tồn tại ở một vị

trí trong Hư Không mà chưa có ánh sáng trắng rọi tới. Chúng cũng lớn vô cùng, cũng tuần hoàn rần rộ.

Võ trụ đen này dường như là hai Thái Cực Quang Minh và Quang Âm vậy. Một điều kỳ dị là có lửa đen trong vũ trụ đó. Thái Dương Hệ mà chúng sanh cư ngụ ở một đĩa Thiên Hà gần trong Trục Thái

cực, có ít Hành tinh, xa các Thiên Hà và các Thái Dương Hệ khác, chưa có độ ly tâm. Các Thiên Hà ngoài đó do ly tâm nên bỏ một không gian trống rổng.

Thái Dương Hệ của chúng ta không có nguy cơ chạm đụng, mà sự nguy hiểm đến từ hai nguyên nhân:

1-Do chính sự vô thức của nhân loại làm mất cân bằng trầm trọng của Địa cầu, dẫn đến xáo trộn hấp lực áp suất, đưa đến gây nổ Hành tinh.

Sự xáo trộn thì gây địa chấn. Nhỏ hơn thì mất cân bằng khí quyển gây bão tố. (Mỗi lần bão là ổn định cải hóa

cân bằng).

Page 19: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

19

2- Sự mất cân bằng của Địa cầu dẫn đến thay đổi biến đổi tuần hoàn Vệ tinh (Mặt Trăng).

Nếu Mặt Trăng thay đổi phương trình chuyển động lăn quay thì vật chất trên mặt Địa cầu sẽ bị xới lên không gian liên tục và sự sống bị tiêu diệt.

Hôm nay, ở kỷ nguyên tận cùng này, nhân loại tự lấy cái văn minh của mình làm

khí giới một cách có hiệu quả cao mà hủy diệt sự cân bằng của Hành tinh, để cuối cùng của nền văn minh hiện đại là nhân loại bị hủy diệt không thể tránh khỏi ! Không thể tránh khỏi !

Chúng ta có thể làm gì để bảo vệ sự sống của toàn Quả Càn Khôn? Sự sống là tinh hoa của Càn Khôn, trong đó có nhân loại trên hành tinh này.

Ảnh THÁI DƯƠNG HỆ của chúng ta với CÁC HÀNH TINH

Page 20: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

IV- HÀNH TINH (Bài 18) Hành tinh là công trình Đại Đạo cấp 4. Công trình đến công đoạn tách thể Hà Đồ đợt thứ 4. Mỗi Hành tinh là một Hà Đồ, không hoàn toàn giống nhau về nhiều mặt, hình

thể nhỏ to khác nhau, hấp lực cân bằng và vật chất khác nhau, thể lỏng hoặc đậm đặc hay khối khí khác nhau…

Do phân chất trược thanh từ lúc ở hệ thống Ngân Hà nên Hành tinh ở tầng cao thấp sắp bày rõ ràng.

Lực nhận từ Trung tâm là Mặt Trời. Hành tinh thuộc Thái Dương Hệ nào thì nhận lực cân bằng từ Tâm Mặt Trời của Thái Dương Hệ đó, và có quỹ đạo quay quanh Mặt Trời đó.

Ước tính là trong Càn Khôn Đại Đạo của Thầy thì số lượng Hành tinh nhiều hơn cát bụi trần gian.

Mỗi Thái Dương Hệ có ít nhất là 6 Hành tinh do lúc tách thể từ đĩa Thiên Hà. Hễ khối Tiên Thiên Khí lớn thì Thái Dương Hệ lớn, Mặt Trời và các Hành tinh,

Vệ tinh đều lớn. Trái lại thì ít Hành tinh và nhỏ hơn. Hành tinh trong Đại Đạo vô lượng như vậy, y như cơ thể của chúng ta có vô số

tế bào. Nếu lấy cơ thể ta nhân lên 10 muôn 8.000 lần thì mỗi tế bào là một Hành tinh ở xa nhau cũng vô cùng vậy.

Cơ thể ta cũng là một Đại công trình trong cơ quan đó, có cả một lập trình Âm Dương sanh diệt, có qui tắc và bất qui tắc, các cái đều có đủ qua quá trình hư hao, phục hồi, tái tạo, xả thải..v.v…

Nếu tính từ Nhơn Thân Tiến Hóa Đồ mà bội ra, lớn lên sẽ hiểu được Thiên Địa Đại Đồ.

Vị trí Hành tinh ở đây như một tế bào. Đạo đã ly tâm ra nguồn lần thứ 4. Quả Càn Khôn Thầy lập cách nay 13 tỷ 819 triệu năm rồi mà công trình này là

công trình muôn thuở. Chừng nào mà trong Chân Không hết Tiên Thiên Khí thì công trình không còn

nhiên liệu xây dựng thì chỉ còn phục hồi, tái chế các phế liệu Hành tinh chết. Vô Cực thì không cùng. Tiên Thiên Khí hóa từ Không mà Có nên nguồn nguyên

liệu cũng vô biên. Công trình Đại Tạo là vạn kỷ. Hiện nay còn vô số các đĩa Thiên Hà chưa tách thể hoàn toàn mà còn chung một

đĩa, hoặc nửa tách nửa chưa xong. Thế nên mỗi Thiên Hà thay đổi thông số hấp lực liên tục. Đĩa Thiên Hà càng phóng thích Thái Dương Hệ ra Hư Vô thì công trình càng

phình to lên, lấn ranh các công trình Đại Đạo khác.

Ở trong công trình Đại Tạo này các Thiên Hà tách ra, rồi lại đụng nhau, sát nhập vào nhau thành to quá, lớn quá, làm áp suất cao, gây nổ, tạo thành hố thẳm, vòi rồng. Vòi rồng xuất hiện ở các Thiên Hà lớn.

Nó có xoáy lực rất cao. Cái mà nó xay nát đó là các Hành tinh.

Page 21: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

21

Nó có khả năng xay nát 1.000 Hành tinh như Trái Đất chúng ta chỉ trong 30 phút liền thành cát vụn, lửa hồng, khí đỏ, bụi đen mù mù, mịt mịt.

Một đầu nó xoáy hút vào. Khi xay xong nó lại phóng thích cho ra Thiên Hà, các Hành tinh mới và chất thải.

Các Hành tinh tái chế này xuất xưởng bằng lực bắn quá mạnh, vận tốc cao vượt qua hết tất cả sức hút của Mặt Trời.

Khi ra khỏi đĩa Thiên Hà không rõ nó sẽ định cư ở đâu và bao giờ mới tìm được chỗ định cư ?

Các đĩa Thiên Hà còn phủ nhiều cát bụi công trình, chưa rõ ràng hình thù dị biệt. mỗi Thiên Hà giống nhau về chiều quay nghịch kim đồng hồ, nhưng khác nhau về công đoạn không đồng nhất.

Ngũ Hành vận chuyển đa dạng, đa thù, để cuối cùng cho ra các Thái Dương Hệ cũng đa thù lắm dạng.

Cối xay Hành tinh có rải rác trong các đĩa Thiên Hà. Đĩa Thiên Hà chứa Thái Dương Hệ của chúng ta ở vào Thiên Hà phía trong, xa

Trục Thái Cực khoảng cách nhiều tỷ năm ánh sáng. Phía ngoài nó còn có nhiều tầng lớp Ngân Hà khác đang ở vị trí thấp của công

trình Đại Đạo, là nơi công trình thiếu sáng thừa tối. Hành tinh đa số ở thể vật chất đá rắn chắc. Các trược chất cô đọng, lắng tụ từ phía trên công trình dồn về nên dày đặc Hành

tinh, lênh khênh cát bụi mịt mù khói hơi… Trục Thái Cực có hai chiều xoay. Tính năng của hai chiều xoay này nghịch nhau

rất rõ là : - Một chiều cuốn hút nguyên liệu vào, ép nén dồn xuống Ống Trục, dồn trược

chất phế thải xuống cuối Trục rồi bắn ra không gian đen tối, chỉ mờ mờ sáng.

- Một chiều ném ra đưa Dương Khí thoát lên và thoát ra phía ngoài công trình. Thập Tự là hệ thống phân Âm-Dương, thành lập giá trị Cửu Thiên, là cột Sống trong Nhơn Thân Đồ. Ở Quả Càn Khôn là phương trình Thập Tự.

- Do Nam Thiện Bộ Châu ở cung Ly (số 9), chứa vật chất cao nhất nên Nam Thiện là địa bàn không gian gần như chứa phế liệu.

- Các phế liệu thoát ra cuối Trục Thái Cực không được công trình tái sử dụng vì nó xuống phía dưới công trình rồi lại mất vào Hư Không vô tận.

- Thái Dương Hệ của chúng ta ở vào một đĩa Thiên Hà cực lớn không gần Thiên Hà khác, được tách ra khỏi đĩa Thiên Hà mẹ tạo thành một Thái Dương Hệ độc lập có Mặt Trời ở giữa và 9 Hành tinh xoay quanh.

Page 22: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

HÀNH TINH

Page 23: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

23

* Từ khi tách ra Thái Dương Hệ có cấu trúc cân bằng bình ổn, thông số hấp lực tuần hoàn ổn định chung cho Thái Dương Hệ.

*Tất cả 9 Hành tinh quay quanh Mặt Trời. *Mặt Trời quay quanh đĩa Thiên Hà (quay xoáy tròn, đi tới). *Đĩa Thiên Hà quay quanh Trục Thái Cực (quay xoáy tròn, đi tới).

Nếu tính thời gian khởi đầu chạy của Địa cầu với vận tốc 1.600km/giờ làm hết một vòng quay quanh Trục Thái Cực thì có lẽ Địa cầu đã chết vì quá già cỗi rồi vậy!

Các nhà Thiên văn cho rằng từ lúc tách ra khỏi dải Ngân Hà, Thiên Hà cấp 3 tuần hoàn được 18 lần quanh Trục Thái Cực.

Ở gần Mặt Trời nhất (đứa con út) là Sao Thủy, rồi đến Sao Kim, Địa cầu và lần lượt …

Sao Hỏa có 2 Vệ tinh. Mộc tinh có 16 Vệ tinh. Thổ tinh có vòngVệ tinh là Thiên Vương tinh, Thủy Vương tinh, Diêm Vương tinh.

Địa cầu có một Vệ tinh là Mặt Trăng. Thường thì Địa cầu vật chất thế nào thì Vệ tinh cũng đồng thế ấy. Hễ thể khí thì

Vệ tinh cũng thể khí, mà đất đá thì Vệ tinh là đất đá. Mặt Trăng ly tâm khỏi Địa cầu thì nguyên lực Dương khí phát ra từ Mặt trời giao

cấu với Âm khí Địa cầu gây nổ lớn, sanh Khảm (Thiên Nhất sanh Thủy) là Mặt Trăng đó. Có Khảm-Ly dẫn đến đủ Ngũ Hành và Cơ Sanh hóa xuất hiện nên:

- Thiên sanh ư Tý - Địa tịch ư Sửu - Nhơn sanh ư Dần . (Trời sanh năm Tý- Đất sanh năm Sửu- Người sanh năm Dần.) Khi Mặt Trăng thăng ra khỏi Địa cầu khiến Địa cầu mất cân bằng, phải chuyển

hóa tái tạo thành các Lục địa, nên xé ra và trôi lìa xa nhau. Vì vậy địa hình Địa cầu mới như thế đó. Địa cầu có diện tích gần 510 triệu cây số vuông. Quỹ đạo có là đường chạy chung quanh Mặt Trời, vừa lăn tròn, vừa đi tới, giáp

một vòng quỹ đạo mất 365 ngày. Vận tốc này thay đổi khác nhau trên quỹ đạo. ¼ chạy với vận tốc ở Bắc Cực

khoảng 3m/s (đi bộ cũng theo kịp) nhưng ở khoảng giữa, chỗ phình nhất thì vận tốc lên đến gần 1.700 km/giờ, có nghĩa là một phi cơ siêu thanh không theo kịp.

Như trên đã nói Địa cầu trong Đại Đạo nhiều hơn cát ở trần gian, thế nhưng tìm một Địa cầu có sự sống như Địa cầu của chúng ta rất ít.

Quả Càn Khôn chỉ có 3.072 Địa cầu có sự sống (vô hình có 3.000, còn Hành tinh hữu hình có 72 cái).

Địa cầu hiện tại bị con người gây ra ô nhiễm nặng ở bên ngoài, còn bên trong lòng thì thông số cân bằng Lạc Thư bị sụp đổ hoàn toàn.

Có nghĩa là các đường chéo ngang dọc của Lạc Thư không cố định là tổng số 25 nữa mà là các con số không bằng nhau như dưới đây.

Page 24: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

Có cân bằng cố định như thế thì Địa cầu mới ổn định tuần hoàn dẫn đến Cơ Sanh hóa Địa cầu ổn định. Con người sống vô thức, phá đổ vỡ, làm băng hoại ngôi nhà chung từ các hành vi sau đây:

- Khai thác khoáng sản. - Sang bằng núi non. - Xây dựng tập trung.

Do vật chất bị mất hấp lực, đổi dẫn đến bị lệch trục quay, Địa cầu tròng trành

muốn ly tâm nhưng đi ra không được vì hấp lực chung của toàn Thái Dương Hệ giữ lại.

Do vậy mà Địa cầu tự chuyển hóa tái tạo lại cân bằng. Mỗi lần chuyển hóa bên trong thì gây động đất, còn bên ngoài thì gây bão tố. Hấp lực bị dồn về Tâm Địa cầu sẽ nổ thành nhiều mảnh. Cơ Sanh hóa bị hủy

diệt. Nhưng Đức Thái Cực biết nên đã lâm phàm cứu khổ chúng sanh. Thầy là Chủ vận Âm-Dương nên Thầy cho dừng Âm-dương lại (Âm-Dương bất

tương) mà đưa lực tái tạo vào cho Địa cầu ở thông số cân bằng mới mà không ảnh hưởng đến Cơ Sanh hóa.

Chúng sanh không hề biết là mình làm hư hại ngôi nhà chung bằng hành vi nào, không biết mình sống trong cộng đồng Đại Đạo, không biết Trời đã cứu khổ và đang ngự kề bên!

Chúng sanh sống ngay trong môi trường” Có-Không; Không-Có” mà chỉ trọng cái “Có”, chẳng kể cái “ Không”.

Thậm thâm hơn trở lại chối bỏ và sát hại Tạo Hóa !!! Sát hại Tạo Hóa chính là tự sát hại mình.

Page 25: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

25

Những nguy cơ có thể từ Đại Đạo đối với Thái Dương Hệ của chúng ta : Trong công trình Đại Tạo Càn Khôn không gì là không thể xảy ra, từ cái rất vi tế đến một thể trạng lớn lao rộng khắp. Thái Dương Hệ chúng sanh hiện đang ở trong một đĩa Thiên Hà có đường kính khoảng 27.000 năm ánh sáng, chứa khoảng 200 tỷ Hành tinh.

Vị trí đĩa Thiên Hà thuộc dải Ngân Hà, ở giữa quả Càn Khôn, kể từ Trục Thái Cực ra ngoài bìa, thuộc Nam Thiện Bộ Châu, chỗ thưa, ít có đĩa Thiên Hà khác lân cận.

Đĩa Thiên Hà này lớn, có rất nhiều vòng xoáy. Các vòng xoáy cận tâm quay nhanh, lực hút cực mạnh. Trong tâm đĩa Thiên Hà này có một Hố Đen rất lớn do Thái Dương Hệ của chúng sanh ở xa cận ngoài bìa. Thái Dương Hệ có thể gặp các hiện tượng bất tương như :

- Một sự bất ổn trong đĩa Thiên Hà khiến một Hành tinh lớn lạc quỹ đạo, đâm thẳng vào Thái Dương Hệ, gây va chạm hoặc làm rối loạn đường bay của Hành tinh trong Thái Dương Hệ.

- Một vụ nổ trong đĩa Thiên Hà phát tán năng lượng làm tiêu diệt Cơ Sanh hóa của Thái Dương Hệ, trong đó có Địa cầu của chúng ta.

- Và biết bao những hiện tượng Thiên văn khác mà sự sống của nhân loại trên Địa cầu tựa hồ như quá bé nhỏ trước một Tạo Hóa lớn lao.

- Nhân loại hoàn toàn không có khả năng đối phó được trước các hiện tượng Thiên cơ.

Chỉ có một điểm tựa duy nhứt là Đức Thái Cực. Đấng Tạo Hóa là Chủ Đại Tạo, Cha của Cơ Sanh hóa.

Trời không hề thiếu lòng từ. Chỉ tiếc là người ta từ chối Đại Từ Phụ và đến với cơ hủy diệt.

Trong khi Đấng Tạo Hóa lâm phàm, chờ con đến để cứu khổ : . Giải thoát cho nhân loại; . Sửa chữa và tái tạo chỗ ở cho chúng sanh; . Lập Chánh Pháp quy nguyên nhân loại; . Lấy Đạo Đức yêu thương làm căn bản cho sự sống …

Mà chúng sanh nào hay biết đến!

- Thầy đã bất tương Âm-Dương cho Thái Dương Hệ, đưa toàn khối Thái Dương Hệ sang qua một vòng xoáy khác của đĩa Thiên Hà để tránh hấp lực nổ Địa cầu.

Thái Dương Hệ sẽ ra mặt phẳng không gian mới, vòng xoáy mới phía ngoài đĩa Ngân Hà.

Thời gian có thể trượt ra là 7 ngày. Mọi sự biến động về hấp lực là lẽ đương nhiên, một đại biến chuyển hóa tái tạo

cũng đương nhiên.

Page 26: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

26

- Địa cầu và Thái Dương Hệ nhận một Bát Quái Đồ Thiên với mọi thông số cân bằng mới.

- Nhân loại muốn tồn tại chỉ còn một cách duy nhất là tìm đến Đại Đạo học phép hườn nguyên Chơn Pháp của Trời đem xuống.

- Địa cầu của nhân loại đang sống, thực thể nó là : Nằm trong Pháp niệm hữu hình nên phải hữu diệt. Các nguy cơ khác xét thấy không có, trừ nguy cơ sau đây :

. Địa cầu bị chính Mặt Trời nuốt chửng.

. Hoặc có sự nổ trong Mặt Trời làm cho chúng sanh bị tiêu diệt do năng lượng phát tán, quá lạnh (lúc không còn Mặt Trời nữa ) và bị mất hấp lực.

Đó là tận thế Cơ Sanh hóa của nhân loại đó ! Địa cầu đứng trước một thực tế như vậy.

Đại Đạo đã sanh hóa trong 13 tỷ 819 triệu năm. Nay đã đến giai đoạn Hườn Đạo.

Thời gian Hườn Đạo cũng tương đương lúc sanh. Càn Khôn Đại luân hồi. Thật vậy !

V- VỆ TINH (Bài 19) Mỗi Hành tinh to thường có từ một đến nhiều Vệ tinh. Vệ tinh được tách ra khi Hành tinh còn chưa rắn chắc. Càn Khôn giao cấu thì

sanh Khảm-Ly. Mà Khảm là Mặt Trăng. Càn Khôn giao cấu tức là Âm-Dương tương giao, do nổ mà tách ra.

Còn các Hành tinh không tách là năng lượng chưa đủ để có Khảm-Ly. - Mặt Trăng là công trình cấp thứ 5 của Đại Đạo. Trong một Thái Dương là cung

Ly, Thái Âm là cung Khảm, Hành tinh là cung Khôn. Cung Càn là khí Dương Thần Quang.

Ở 5 công đoạn của công trình Đại Đạo, mỗi công đoạn là chủ điểm tách khí Âm Dương- Do xoáy chuyển nên Âm-Dương theo quần xoáy mà tập kết, đến lúc đủ năng lượng tương giao thì nổ Âm-Dương mà tách khí.

Mỗi chỗ Ngân Hà, Thiên Hà, Thái Dương Hệ tách khí như vậy thì Khí Dương nhẹ nặng tạo thành 7 giá trị thanh trược, tuần tự bị hút về làm nguyên lượng cho Trục Thái Cực. Do cấu trúc hình thành và chuyển vận bằng Chơn Khí theo trật tự thanh thanh, trược trược mà Càn Khôn có 9 tầng lớp giá trị xác lập thành Cửu Thiên.

Cửu Thiên là Cửu Phẩm, là một trật tự thứ lớp được công trình tự động phân chất thành lập trật tự. Ở dưới lên là Dương. Từ thấp lên cao đến Thuần Dương là ở tại Trung Giới.

Page 27: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

27

Nói cho chính xác nhất, đúng chân nguyên lý thì Cửu thiên là giá trị được xác lập thành căn cứ và sự loại trừ tập chất của Âm, của Dương (vì Âm-Dương là năng lượng tuần hoàn).

Mặt trăng của Hành tinh tách ra đó là nguyên lý Đại Đạo. Nó tách ra từ chỗ Âm-Dương của nội tạng. Thái Dương Hệ đủ năng lượng, đến hồi Âm-Dương tương giao do lực áp suất, lực nội chấn nên chất nhẹ ly tâm mà văng ra, thăng ra.

Nguyên lý này mà Ngân Hà ra Thiên Hà. Thiên Hà ra Thái Dương Hệ. Thái Dương Hệ ra Hành tinh. Hành tinh ra Vệ tinh.

Có Vệ tinh rồi, thì các hiện tượng phụ có thể sinh ra : - Vệ tinh va chạm với các cái khác mà nát vụn tạo thành vòng kiền nhẫn mỏng

bao ngoài và chuyển động quanh hành tinh. Thật là Vệ tinh hình “Long đền” đó, như Sao Thổ trong Thái Dương Hệ chúng ta.

- Cũng có khi do một trắc biến mà Hành tinh nhận thêm nhiều Vệ tinh chỗ khác đến định cự. Do đông thành viên nên đụng nhau nhẹ rồi bể ra và sanh thêm, đồng chạy quanh. Hành tinh có nhiều Mặt Trăng như trường hợp Mộc tinh, có 16 Vệ tinh bay quanh.

Mặt Trăng là một Hành tinh trong Thái Dương Hệ, là cung Khảm, chia cách năng lượng để tự chủ sanh hóa.

Trong Thiên lý : - Thiên Nhất sanh Thủy, xác lập điểm cao. Khảm cung số 1 có trên thì có dưới. - Địa Cửu thành Chi : Xác lập điểm Đài Ly cung số 9.

Có Khảm, có Ly tất sau đó có đủ Tứ tượng. Khi mà Khảm-Ly luân phiên giao hợp có nghĩa là Mặt Trời, Mặt Trăng, Trái Đất

(Hành tinh) thẳng hàng thì sẽ sanh cung Chấn nếu là Mặt Trăng áng ánh sáng Mặt Trời (Nhật thực)-Sanh cung Đoài nếu Trái Đất (Hành tinh) ở giữa áng ánh sáng Mặt Trăng (Nguyệt thực).

Đây là Thiên Lý của một Hành tinh trong Thái Dương Hệ đầy đủ tiêu chuẩn về nguyên lý thành lập :

Có đủ Ngũ Hành là có điều kiện tuần hoàn ổn định. Cấu trúc cân bằng của khối đạt thông số chính xác. Và đây là điều kiện tối ưu để Cơ Sanh hóa xuất hiện.

Nhưng còn phải xem lại Hành tinh đó ở thể rắn hay thể khí chứa độc tố. Dầu cho Hành tinh có một Vệ tinh mà quỹ đạo Vệ tinh đó hình elip cũng không

có Cơ Sanh hóa vì khi chạy gần với nhau thì từ trường hấp lực hút ghị nhau sanh mất ổn định cho Hành tinh.

*Hành tinh đa Khảm như Mộc tinh cũng không thể có Cơ Sanh hóa được. *Đại Đạo bao la mà một Hành tinh có sự sống thật khó vô cùng.

Page 28: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

Ảnh THÁI DƯƠNG HỆ VÀ CÁC VỆ TINH TRONG HỆ THỐNG

- The Sun : Mặt Trời - Asteroids : Vành đai Tiểu Hành tinh - Mercury : Sao Thủy - Jupiter : Sao Mộc - Venus : Sao Kim - Saturn : Sao Thổ - Earth : Trái Đất - Uranus : Sao Thiên Vương - Mars : Sao Hỏa - Neptune : Sao Hải Vương

Ảnh VỆ TINH TRONG THÁI DƯƠNG HỆ

Page 29: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

29

Cả một Nam Thiện Bộ Châu chứa 200 triệu đĩa Thiên Hà. Mỗi đĩa Thiên Hà có 4.000 tỷ Hành tinh. Vậy mà Nam Thiện bộ Châu chỉ có 72 Hành tinh có sự sống hữu hình như Hành

tinh chúng ta đây. Trong một Càn Khôn Đại Đạo, sự sống hữu hình hay vô hình của các Hành tinh,

đó là tinh hoa duy nhất của toàn khối. Sự sống tiến hóa đến đỉnh điểm là lúc vạn thù quy nhất bổn, Khối Đại Linh

Quang thật sự lớn ra. Trong Thái Dương Hệ của chúng sanh có đến 9 Hành tinh và rất nhiều Mặt

Trăng (Địa cầu có 1, Sao Hỏa có 2, Mộc tinh có 16, Thổ tinh có 1 vòng Long Đền). Hơn 20 Vệ tinh vậy mà chỉ có Trái Đất mới có Cơ Sanh hóa đa dạng chất chồng

như vậy. Mặt Trăng tuần hòan quanh Trái Đất với chu kỳ ổn định là 30 ngày cho một

vòng bay. Đặc biệt do lực giữ và phát ra từ trung tâm Địa cầu nên buộc Mặt Trăng chỉ bằng

1/6 sức hút Địa cầu do vậy mà khi đi gần Địa cầu nó hút lấy bầu khí quyển và vật chất lỏng là nước phải dâng lên chạy theo . Nó làm mất cân bằng đại dương và bầu khí quyển.

Khi nó tuần hoàn quanh Địa cầu, Địa cầu chạy quanh Mặt Trời và Mặt Trăng phát ánh sáng cho Địa cầu và Mặt Trăng nên có hai hiện tượng Nhật-Nguyệt thực xảy ra.

- Nhật thực là lúc Khảm-Ly sanh Chấn cung hay Ly-Khảm vị tế. - Nguyệt thực là lúc Đoài sanh đủ Ngũ Khí hay Thủy-Hỏa ký tế.

Nhật thực, Nguyệt thực là hai nguồn năng lượng tạo Cơ Sanh hóa Địa cầu với nhiều tầng lớp đa dạng nâng cao.

Tổng thể vũ trụ được khai sáng ở thời điểm : *Thiên sanh ư Tý- Địa tịch liền theo ư Sửu. *Sanh hóa có liền: Nhơn sanh ư Dần. *Và Nhị ngoạt Thập ngũ (15/2) phân tánh giáng sanh. Thầy đưa 100 ức Linh bảo

xuống trần, lấy Địa cầu làm ngôi nhà chung. Sự sống và tiến hóa của nhân loại chia làm 3 Ngươn với thời gian 129.600 năm

thời gian này là Thái Dương Hệ làm được 1 vòng quanh đĩa Thiên Hà. Hiện tại kỷ nguyên này nhân loại trên Hành tinh này đang đối mặt với kỷ nguyên

tái tạo (làm hư rồi tạo lại từ sơ khai.) Sự sống của Đại Đạo chỉ có khi Thiên Hà đã tách ra Thái Dương Hệ hoàn chỉnh.

Hiện tại các Thiên Hà còn xoáy tròn với một tổng hình thể chung. Còn mang tính sơ khai hỗn độn nên sự sống toàn Càn Khôn chỉ có rải rác ở

3.072 Hành tinh, chiếm chưa được 1/oo tỷ Hành tinh hiện có.

Trong Cơ Sanh hóa chia ra 3 giá trị : Thượng sanh- Trung thai- Hạ thai.

Page 30: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

30

Tam Thai bào Hành tinh mà Thầy Tạo Hóa giao cho Đức Lạc Long Quân làm chủ từ đầu Thượng Cổ, đã thống nhất sự sống trên Hành tinh này thành xã hội Bách Việt. Quốc Phụ đã đi tu để hướng đạo cho nhân loại và đắc Phật là Di Lặc. Ngài vừa là Cha nhân loại, vừa là Ngọc Đế của Địa cầu.

Hôm nay khi tuần hoàn 3 Ngươn (Thượng-Trung-Hạ Ngươn) giáp mối, Tạo Hóa nâng cấp tiến hóa cho Địa cầu vào vị trí 67. Thế nên Thượng Đế cho lập ra Đại Đạo để giáo hóa chúng sanh. Thiên định đã trên muôn năm rồi.

(…Lập Đạo muôn năm trước định giờ.)

Nên Lạc Thư Địa cầu cài đặt tại Nam Việt Nam và đang vận hành toàn cầu. Toàn nhân loại quy thống tại Việt Nam, lấy Đất Tổ mà bảo vệ Cơ Sanh hóa toàn cầu, lấy Đạo Đức lập Thái Bình, Dân chủ, Công bằng và giao cho Đức Di Lặc thay Tạo Hóa mà lập giáo, Điều hành Thế Đạo và Thiên Đạo.

Chương trình Thiên Ân chỉnh sửa cân bằng, ngăn nổ do hấp lực Địa cầu, giảm bớt kiếp nạn chúng sanh, nâng cấp Địa cầu, kéo dài sự chuyển hóa, tái tạo Hành tinh để chờ sự hồi đầu của chúng sanh cho hợp với Tạo Hóa.

Đại Từ Phụ, Quốc Phụ cùng Khối Đại Linh Quang đã trùng trùng giáng hạ để cứu lấy Cơ Sanh hóa- Vốn dĩ do chính con người tự hủy diệt vì vô minh mà nhân loại không hề hay biết.

Quốc Phụ từng bước chỉnh trang, sửa chữa Quốc độ Việt Nam, để dân tộc da vàng đủ tiêu chuẩn Thiên định hướng Đạo nhân loại, thể hiện trang nghiêm thiên tài Đại Đức che chở chúng sanh vượt qua kiếp nạn, lập lại đời Thượng Cổ.

Dân tộc ta tài đã xuất chúng. Nay Tạo Hóa lập Đạo thống nhất Tam Giáo, quy thù nhân loại bằng Đạo Đức, tất cả đã hoàn tất.

Còn vận hành thì Việt Nam sẽ “khổ tận cam lai”, trở thành một siêu cường về Tài Đức.

Vạn quốc phục tùng, nhân loại quy về mà lạy, không còn dám xem rẻ ta nữa. Do ở ta có tỏ rõ lập trình Tạo Hóa hay không…Nếu vô tình mà phải cãi Cha

(Lạc Long Quân) là nghịch Thiên thì tất bị tiêu diệt và Tạo Hóa sẽ di Thiên Ân sang Quốc gia khác và cắt bức Lạc Thư (Thiên Nhất sanh Thủy) tại VN.

Cờ quy nguyên nhân loại hiện ở trong tay :

Đạo Đức chấn hưng, hòa bình thế giới, đại đồng tuyệt khổ vạn linh, quy thống Vạn Pháp, chủ quyền vạn thế.

Hỡi đồng bào, hãy mạnh lòng dấn bước! Mỗi bước chân hảo hợp Đất Trời Thiên Địa-Nhơn, cả thế đồng quy nguyên… - Hỏa tinh có 2 Vệ tinh nhưng vì Vệ tinh quá nhỏ, Nhật thực và Nguyệt thực xảy

ra không rõ, không đủ nguyên lý ký tế để có Cơ Sanh hóa như Địa cầu.

Page 31: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

31

Nhiều Vệ tinh như Mộc tinh thì vừa lập thành thì bị Vệ tinh khác bẻ gãy. Các từ lực làm Mộc tinh và các Vệ tinh nhỏ bên trong không ổn định. Trong 16 Vệ tinh của Mộc tinh có một Vệ tinh khá lớn, đóng băng rất dày, toàn diện.

- Sao Thổ và Sao Thiên Vương tinh- Mỗi Hành tinh đều có Vệ tinh “Long đền”

(vì bị vở vụn thành một vòng kiền hình một “Long đền” trải rộng chung quanh quỹ đạo. Ở các Vệ tinh kiểu này, sự tác động thiên văn giữa Mặt Trăng “Long đền” với Hành tinh có hiện tượng ra sao chưa rõ ?

Thái Dương Hệ chúng ta đã hoàn chỉnh về mặt hình thể. Thực tế hôm nay chính xác nó có 11 Hành tinh quy quanh Mặt Trời cùng với 2

Sao Chổi, trong đó Thổ tinh và Thiên Vương tinh có Vệ tinh Long đền. Vệ tinh như vậy là một hiện tượng đặc thù mà Thái Dương Hệ ta gặp. Hai Hành tinh Thổ và Mộc tinh lớn xác lại là hai khối khí độc. - Diêm Vương tinh có vật chất nhẹ, thăng ra ngoài gần như đi luôn, phải 285

năm mới làm xong một vòng quỹ đạo. Vì xa Mặt Trời nên nó rất lạnh. Gần đây các tàu không gian tìm gặp ngoài Diêm Vương tinh còn có một Hành

tinh nữa của Hệ Mặt Trời với diện tích nhỏ. Đây có phải là anh cả của 10 Hành tinh phía trong không ? Hay còn Hành tinh nào nữa ?

Từ đây ta mới thấy rõ là một Hành tinh trong Đại Đạo muốn có sự sống đa dạng như Trái Đất, ngôi nhà chung của vạn loại, chịu hết mức khắc nghiệt về Pháp Giới Đại Đạo.

VI- ÂM DƯƠNG BẤT TƯƠNG (Bài 20)

Đạo sanh ra Thái Cực ở giữa Âm-Dương và làm Chủ Âm-Dương. Thầy phát niệm Đại Tạo làm năng lượng chuyển hóa Âm-Dương. Nguốn năng

lượng từ Thầy là Thần Quang Tánh thể vô Vi. Quả Càn Khôn là đồ án lập trình các công đoạn đến hạn mục cuối cùng : Võ trụ

hoàn thành. Tất cả khi vào thi công đại công trình Thầy dụng Âm-Dương của Bát Quái Đồ Thiên mà tự động hóa các công đoạn bằng nền văn minh siêu Vô Vi. Công trình thiên niên kỷ và công trình càng mở rộng mãi mãi, hoài hoài. Công trình khép kín, nguyên lý Đại Tạo mở rộng, phát tán công trình trong 360o .

Toàn thể hình Quả Càn Khôn là kết quả tiêu điểm. Các hạn mục cấu trúc được hình thành trên “Lý” tại một thời điểm chung, tức là :

- Mọi cái có trong Trời Đất do cái Sanh (lập trình) và cái Diệt (kết quả). Cả hai cùng là “ Lý” hình thành một lượt. Nói khác hơn, hễ muốn thực hiện “Lý tính” thì không thể thiếu Âm-Dương. Cho nên Âm-Dương, Sanh-Diệt là cái chung, khó tách.

Page 32: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

32

- Quả Càn Khôn cũng vậy. Không phải khi Thầy khởi niệm Đại Tạo tại Tam Thanh là tại vị trí (Đại Đạo- Tánh Hải- Bát Nhã…), hình thành cái “Lý” . Trong cái “Lý ” này hình thành nhắm vào tiêu điểm kết quả mà có Lý trình, có nghĩa là phải đủ Âm-Dương song hành. Âm-Dương là Thần Quang vi Chủ.

- Thần Quang ra đến công trường Đại Đạo thì Khí Tiên Thiên (nguyên liệu xây dựng) nương Thần Quang vò viên lại làm tốc độ vận chuyển từ thấp cơ bản đến cực cao, dường như quá nhanh đến đổi tưởng chừng như đứng yên.

Thần nương Khí- Khí nương Thần. Toàn thể đại công trình động chuyển theo lý trình niệm lập của Thầy. Và cũng chính Thầy viên dung Trung Hòa Thần-Khí cho từng công đoạn : Ngân Hà- Thiên Hà- Thái Dương Hệ- Hành tinh- Vệ tinh…

- Thầy chủ động sử dụng Âm-Dương cho toàn công trình, thúc hối hay trung bình, từng công đoạn theo nhu cầu lý trình.

- Âm-Dương tương giao, Càn Khôn phát động, Thần Khí hiệp Nhất, năng lượng dồi dào, Đại Đạo trùng trùng sanh hóa, tán vạn. Hư Không biến thành chỗ chứa đầy ấp các Pháp. Các Pháp giao thoa- Sấm chớp trùng trùng, lửa cao vòi vọi, tiếng nổ như xé nát Hư Không.

Âm-Dương , thanh trược thăng giáng, khói bụi ngùn ngụt bao la, chất ngất đầy ấp Hư Không . Tốc độc càng lúc càng cao điểm ở mọi chỗ, mọi nơi.

Âm-Dương giao thoa sanh Vạn Pháp-Vạn Pháp là năng lượng chuyển hóa tự động-Pháp hóa lý trình, phát tán đầy ấp không gian, Khí Tiên Thiên toàn động.

Âm-Dương bất tương là lúc Thầy tách Âm-Dương ra Nhị Thể, Thần-Khí bất giao. Cô Âm-Độc Dương thì không sanh hóa.

Thầy có thể bất tương Âm-Dương cho toàn công trình, hoặc một phần, một đoạn công trình.

Thí dụ như : *Thầy cho ngưng công trình cấp 3 : Thái Dương Hệ.

Khi bất tương Âm-Dương (coi như cúp cầu dao tự động Thần Quang) là toàn Thái Dương Hệ đó không còn năng lượng động mà chỉ còn năng lượng tịnh. Nói cụ thể là trong Chân Không mọi vật chuyển động tự do. Thái Dương Hệ lúc trước chuyển động cường độ nào thì khi Âm-Dương bất tương, toàn khối công trình cấp 3 này vẫn chuyển động như vậy trong Chân Không. Thầy sử dụng Bát Quái Đồ Thiên (nguyên lý sanh hóa Càn Khôn võ trụ, niệm Đại Tạo khởi sanh) cho riêng một Thái Dương Hệ. Khi đang chuyển động tự do, Bát Quái Đồ Thiên bất ngờ chuyển vận Âm-Dương, đưa toàn công trình cấp 3 vào niệm định của Thầy và cho Bát Quái Đồ Thiên cùng hòa nhịp toàn khối Càn Khôn (mở cầu dao lại) thì Thái Dương Hệ chuyển vận theo qui trình cải hóa và hội nhập, tự nhiên ổn định tuần hoàn…

Tính năng Tương giao hay Bất tương Âm-Dương là tính năng đặc thù của Đấng Chúa Tể Càn Khôn,Vi Chủ Âm-Dương. Nếu không phải Thầy thì Âm-Dương tức khắc nổ ngay.

Page 33: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

33

Thầy chỉ sử dụng bất tương khi công trình Càn Khôn bất ổn Pháp Giới (không ổn định tuần hoàn do thay đổi hấp lực.)

Như vừa qua Địa cầu của chúng sanh đã bị chúng sanh làm mất cân bằng toàn cầu, áp lực của Hành tinh bị dồn về trọng tâm làm thay đổi từ trường chung cho cả Hệ Mặt Trời, tạo nguy cơ nổ do hấp lực âm ĩ xuất hiện.

Ngày tận thế sắp kề bên, chúng sanh chắc chắn sẽ bị tận diệt. Đại Từ Phụ đã lâm phàm cứu khổ, thực hiện bất tương Âm-Dương, đưa toàn

khối Thái Dương Hệ vào mặt phẳng mới (không gian cao hơn so với vị trí cũ). Thầy đã đưa Thái Dương Hệ (khi đang chuyển động tự do) vào mặt phẳng không

gian đồng cấp với Thái Dương Hệ có Hành tinh 67, ở cách Thái Dương Hệ của chúng ta 2.000 năm ánh sáng.

Từ hấp lực cao ở tầng thấp 68 nên áp lực hấp dẫn toàn khối Thiên Hà đè lên, cộng hấp lực mất cân bằng chung của Thái dương Hệ nên Địa cầu phải nổ do hấp lực thay đổi.

Thầy đến bất tương tại công đoạn cấp 3 này và tự do chuyển vận nguyên lý tạo công, đưa toàn khối Thái Dương Hệ vào chốn không phận cao hơn vị trí cũ để tránh hấp lực cao đến vùng Hư Không.

Trong trọng trường ly tâm hấp lực thấp rồi hội nhập cộng đồng Thiên Hà, bình ổn tuần hoàn. Do sự thay đổi không gian Pháp Giới mà tránh nổ và tự chuyển hóa tái tạo chậm không hại to. Cả nhân loại đều không hề biết điều này.

Cha Trời đã cứu khổ chúng sanh bảo tồn Cơ Sanh hóa, lại còn nâng cấp chúng sanh trổi tấn lên một cấp bực. Thầy đã công nhận và đánh giá sự tiến hóa của chúng sanh.

Kỳ thật, đây là lòng Trời đại xá cho nhân loại Càn Khôn bao la, trong đó chỉ có 3.072 Hành tinh có sự sống (“Có-Không” ) của Thầy.

Thầy đã từng dạy :

“ Khi có các con, thầy quá đổi thương yêu. Thầy có gì, cho con có nấy. Thầy là Đại Thiên Tôn, con là Tiểu Thiên”.

Nay trước cơ tuần hoàn giáp mối, Thầy lại lâm trần quy nguyên nhân loại, thống nhất Tam Giáo, tuyệt khổ đại đồng, sửa chữa Hành tinh, giáng dạy Đại Đạo.

Thật là Cha Lành Tạo Hóa đã làm vậy mà chúng sanh vẫn ngủ mê như chết! Chúng sanh đâu có tỉnh để thấy Cha Trời đang đứng đợi để hiệp Thần-Khí mà đưa các con ra ngoại Càn Khôn thành Phật.

Lực ở Càn Khôn thường dồn nén về Tâm. Ngân Hà, Thiên Hà cũng y vậy. Ở Thiên Hà là một cái đĩa cuồn cuộn quay quanh và chạy tới quỹ đạo quanh

Trục Thái Cực. Mỗi đĩa Thiên Hà có sức chứa hơn một triệu Thái Dương Hệ. Các Thái Dương Hệ phía trong đĩa Thiên Hà hay trắc biến rồi sanh nổ trong Hố

Đen. Sự nổ này xảy ra khi Hành tinh lớn trội.

Page 34: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

34

Ở Thái Dương Hệ của chúng ta, Hành tinh Trái Đất sở dĩ có nguy cơ nổ hấp lực là do sự vô minh của chúng sanh, do khai thác địa khoáng, thay đổi địa hình, xây dựng tập trung, làm bẻ gãy hấp lực cân bằng của Đại cầu, gây sự rối loạn tuần hoàn của Địa cầu (chúng sanh bị sát hại), dẫn đến bất ổn thông số cấu trúc chung của toàn Thái Dương Hệ.

Sự trắc biến thiên này do con người và đã được Đại từ Phụ bất tương Âm-Dương cho riêng công trình cấp 3 này để bình ổn Càn Khôn tại khu vực.

Địa cầu dần dần đi về Thượng Ngươn, vừa đi vừa chuyển hóa tái tạo với mức độ cho phép.

Cơ Sanh hóa đồng thời cũng bị mai một, âu cũng do lòng người tự chiêu cảm Âm Khí bởi cuộc sống tiêu cực :

- Sống mà chỉ biết “Có” mà quên “Không”, là cái sống vật chất thuần âm, ảo pháp, diệt tận, sống xa lìa Tạo Hóa khi đang ở trong long Tạo Hóa.

- Sống mà chỉ biết cái “Không” là cái sống trong Pháp Giới Dương Khí tích cực. - Sống mà biết sống trong “ Có-Không; Không-Có” là cái sống viên minh, hằng

sống trong Pháp Giới Bát Nhã, nối kết Thiên-Địa-Nhân là một khối thống nhất. - Thầy đã bình ổn Càn Khôn, tái tạo Thái Dương Hệ cho chúng sanh, chỉ chờ

chúng sanh sống hợp Đạo mà thôi. - Chọn Pháp Giới sống sanh hay diệt là cái quyền nhân quả của chúng sanh. - Mong rằng cái mà con người gọi là văn minh, hay giỏi là kỷ nguyên khoa học

thật sự, là con người đang ở đỉnh cao của văn minh vật chất (Thuần Âm) là đỉnh cao của Pháp Giới tiêu diệt thật rồi đó.

Page 35: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

CHƯƠNG THỨ NĂM : ĐỊA CẦU & NHÂN LOẠI

I- CƠ SANH HÓA ĐỊA CẦU (Bài 21)

Khi Bát Quái Đồ Thiên đã hình thành là lúc Quả Càn Khôn đã viên thành, võ trụ đã hoàn thành.

Trong đó có Hành-tinh của nhân loại cũng có Linh Hồn đủ Ngũ Hành là Hậu Thiên Bát Quái và một xác thể là quả Địa-cầu. Sự giao hợp của Âm- Dương không bao giờ ngơi nghỉ nên khi Địa-cầu đủ Ngũ Hành thì Cơ Sanh hóa trên Hành-tinh xuất hiện.

Không biết do đâu mà có câu : - Thiên sanh ư Tý (Càn Khôn Quả viên thành năm Tý). - Địa tịch ư Sửu (Trái đất tròn đầy năm kế tiếp là Sửu). - Nhơn sanh ư Dần (Người liên tục được sanh vào Dần). Cơ cuộc Đại Tạo lớn lao như thế mà mau lẹ như vậy thật diệu kỳ. Trong Càn Khôn có những Tinh-cầu không đủ Ngũ Hành, chỉ có Hành Thổ,

thường là thiếu Hành Thủy-Hỏa-Mộc . Vì chúng không có 2 cung Khảm-Ly để làm cơ bản cho Cơ Sanh hóa. Tuy nhiên Ngũ Hành có tính độc lập tính Đơn bào nên có Hành nào thì có sự

sanh hóa hợp với Hành đó. Sự sống Đơn bào xuất hiện ở các Hành-tinh chưa hoàn chỉnh, có nghĩa là sanh hóa còn giới hạn tối đa.

Các Hành-tinh đủ Ngũ Hành mà ở Bắc Cưu Lưu Châu. Một phần phía Bắc của Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu vì Thuần Dương nên cũng ở chỗ vô sinh tại chỗ mà chỉ có sự sống di trú từ các Hành-tinh phía dưới Nam Thiện Bộ Châu lên mà thôi.

Riêng ở Thất Thập Nhị Địa ở Nam Thiện Bộ Châu, số Hành-tinh này tính Âm- Dương đồng lực nên cơ sanh hóa muôn hình vạn trạng, vô cùng, vô tận đến nỗi sự sống chồng chất lên nhau trong khí quyển, trong lòng đất, dưới biển, mỗi mỗi cơ thân của sự sống này là chỗ sanh sống của muôn sự sống khác.

Địa-cầu cũng vậy, sự sống có từ bao giờ không rõ nhưng Thai-bào của Địa-cầu được phân làm 3 cấp :

- Thượng-Thai : là Thai-bào con người tốt và hoàn chỉnh hơn. - Trung-Thai : là của muôn thú. - Hạ-Thai : của các sinh vật bò bay, máy cựa. Nói nhơn sanh ư Dần đúng hơn phải nói nhơn vật sanh ư Dần. Đức Thượng Đế dạy : “ Thầy là Đại Thiên - Các con là Tiểu Thiên…” Vậy ta chỉ xét xem thật sự con người đúng là Tiểu Thiên không ? Có một điểm đồng cơ bản là muôn vật trong đó có con người và Trời Đất do

Tiên Thiên Khí 108 nguyên tố sanh ra. Đó là chỗ Trời và Người có cùng tố chất. Định luật sanh hóa của Trời Vô Cực có nhất điểm thành Thái Cực.

Page 36: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

36

Thái Cực sanh Âm-Dương. Âm- Dương sanh Khảm-Ly. Khảm- Ly sanh Chấn- Đoài… đủ Ngũ Hành, do nhẹ nặng sanh Tam Giới… Qui trình sanh Trời Đất là vậy. Còn thân xác con người, tinh thần con người qui

trình ra sao ta lần dò xem lại : Mẫu thân dục niệm có sanh Noãn hình tròn, trong Noãn có huyết loãng. Đây là Vô Cực, trong Vô Cực có Tiên Thiên Khí giống Trời Đất rồi. Cha có dục tình giao hiệp với Mẫu, nên noãn của Mẫu có nhất điểm Tinh trùng-

biến Vô Cực thành Thái Cực. Nhất điểm Tinh trùng thuộc Dương động, Huyết Mẫu thuộc Âm tịnh. Âm- Dương : Tinh Cha, Huyết Mẫu hóa sanh Khảm-Ly mà Khảm là Thận Thủy,

Ly là Tâm Hỏa. Khảm-Ly sanh Chấn-Đoài. Chấn- Mộc là Can, Đoài- Kim là Phế. Trung tâm Mồ

Kỷ Thổ biến thành Tỳ Vị. Vậy Ngũ Hành : Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận vận hành, hình thành cơ thể con

người. Khí huyết nhẹ thăng lên lập thành Thượng Điền.

*Trong Thượng Điền có Ngũ Long Môn, chính là Ngũ Hành thanh nhẹ như : +Thận thanh cố lên thành 2 Lỗ tai. +Mộc thanh thành 2 Mũi. +Hỏa thanh thành 2 Mắt. +Tỳ thanh thành Miệng, Lưỡi. +Kim (Phế) thanh thành Đầu. +Ngũ Hành trược trầm lắng tạo ra Hạ Điền.

*Tại Hạ Điền có : -Hỏa trược thành Tiểu- tràng. -Mộc trược thành Đởm- vị. -Phế trược : Đại tràng . -Thổ trược : Vị . -Thủy trược : Bàng quang (Hạ Thận).

*Ngũ tạng ở giữa Thân lập ra Trung Điền. Cột sống hình Trục Thái Cực từ Thượng Điền đến Hạ Điền chia làm 3 Cung.

Mỗi Cung có 3 Khiếu nên có 9 Khiếu, ứng với Cửu Thiên. Ngũ Hành tạo tứ chi giữa cân bằng cho cơ thể. Bát Quái cơ thân vận hành theo phương thẳng đứng. Do đây mà Thai-bào con

người có tính ưa thẳng đứng hơn. Thú cầm cũng đủ Ngũ Hành nhưng chuyển vận theo phương nằm ngang, đầu

đuôi ngang hàng, Âm- Dương lẫn lộn. Hằng triệu, hàng tỷ tế bào trong một Cơ thân con người không khác nào hàng tỷ

Hành-tinh trong Quả Càn Khôn.

Page 37: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

37

Vậy không phải Thai-bào con người mà muôn vạn cũng do Một Khí, Một Lý mà ra. Cổ nhân sớm thấy điều này nên khi viết chữ Nhơn gồm hai nét phục, nét phắt (tít

tắt) . Đó là tượng người do Nhất Dương, Nhất Âm mà ra. Nay con người là một động

vật có đầu hướng lên Trời, chân đứng trên mặt Địa-cầu. Vị trí này, con người là trung gian, là cầu nối giữa Thiên Địa. Có đặc tính chỗ

cao nhất của Người là chỗ thấp nhất của Trời, đó là Đầu Người. Vậy Đầu Người là giao điểm của Người và Trời. Chỗ này đây nên Trời sanh ra tại Đỉnh Đầu người là sanh Thánh Nhân. Chỉ có định luật là sanh chỗ thấp nhất, không sanh chỗ cao nhất trong nội thể. Cho nên khi muốn xuất Thiên Môn Đảnh phải có sự hỗ trợ của Trời. Do vậy mà Đại Từ Phụ có dạy chỗ này : “Thầy đến hiệp Thần-Khí cho con Đắc Đạo”. Vị trí con người có chỗ thấp nhất là Đất nên con người sanh ra chỗ thấp đó chỉ

có sanh phàm nhân .(Đây là chỗ cao nhất của Đất mà thấp nhất của Người). Do đó Người Chủ sanh . (Đối lại với trên đó!).

Con người ở vị trí kẽ giữa Trời và Đất, thật linh động như vậy nên Người ở trong Tam Tài, gồm 3 thành phần : THIÊN-ĐỊA-NHÂN.

Con người ai cũng có vị trí “ Tam Tài ” để thông công. Thế nên Con người phải biết giữ mình ổn định ở một giá trị nào đó đủ tiêu chuẩn mà thông công- Làm cầu nối Trời- Đất- Người.

Tại nhân loại tự hủy bỏ sự kết nối thiết yếu này nên sống : Trên càng nghịch Thiên- Dưới sống phản Địa.

Trời Đất là Cha Mẹ, không sát phạt chúng sanh, mà chính hành vi kết quả của mình gây ra, nó trở lại giết chết tập thể con người dưới nhiều hình thức rất đau thương.

Vì không nỡ ngồi nhìn chúng sanh, Đức Thái Cực và Khối Đại Linh Quang lâm phàm cứu khổ. Vậy mà Con người tổ chức thành tập thể chống lại Trời Già, không cần cứu khổ !

Trong Kinh cúng Đức Thái Thượng Đạo Tổ có câu : “…Nhị ngoạt Thập Ngũ phân tánh giáng sinh nhất thân ức vạn….” Xin nhắc lại, Đức Thái Thượng là niệm Đại Tạo của Ngôi Thái Cực. Thái Cực Chơn Như vô tướng, khi động niệm thành Thái Nhất là Thái Thượng

đó! Đạo khởi sanh tại niệm nên Đạo Tổ là chỗ Thái Thượng. Thượng Đế chiết thân tại chỗ Thái Thượng. Ngày 15/2, Cổ thư ghi : “Nguyên linh xuống Địa-cầu 100 ức. Thời điểm xuống trần tại Địa-cầu đã có

chúng sanh rồi, họ tiến bộ, biết lập dịch rồi”. Vậy “Kế hoạch ” đưa Nguyên linh xuống trần để chi và Nguyên nhân đó là gì?

Có hai mục đích ta tìm đến .

Page 38: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

38

A- NGUYÊN LINH LÀ GÌ ?

Nguyên linh được chiết ra từ Thái Thượng nên gọi là Thái Cực Linh Căn Chơn Tánh, còn gọi là Chơn Tánh. Phật gọi là Tánh…

Ta hiểu nôm na đây là bản thể của Trời Thái Cực tách ra mà ta vốn biết Đức Thái Cực là chỗ toàn thiện, chí mỹ, chủ vận Càn Khôn trên cả Phật Tiên, là Cha Lành của vạn loại. Thể của Cha Trời không thể dùng lời mà diễn tả đặng.

Chiết 100 ức, tức là có 100 ức Ngôi Hai, vì Thượng Đế là Ngôi Độc Nhất (Ngôi Một) xuống Địa-cầu.

100 ức Ngôi Hai này có tố chất Thượng Đế rất đầy đủ. Trời có gì, Ngôi Hai có nấy.

Ta mượn một thí dụ để tả sự chiết thân từ Ngôi Một ra Ngôi Hai như sau : Ta dùng một Ngọn Đèn thường gọi là Ngôi Một Thái Cực. Ta lại dùng 100 ức Đèn khác để giả là Ngôi Hai. 100 ức Đèn được mồi lửa từ Đèn Thái Cực và Đèn Ngôi Hai đã tỏ rạng. Chiết

rồi, vậy xem Đèn Thái Cực có bị thay đổi hình thái nào không? 100 ức Đèn Ngôi Hai có cá thể nào thiếu tố chất của Đèn Ngôi Một không ? Sau khi chiết 100 ức Đèn cấp Hai rồi Đèn Thái Cực hết sức bình thường. Sẵn đây ta nói luôn vậy : 100 ức Nguyên căn chiết ra từ Ngôi Thái Cực Linh Căn Chơn Tánh là 100 ức

Nguyên căn. 100 ức Nguyên căn này đầy đủ tố chất của Đấng Tạo Hóa : Tánh thể vô tướng của họ chính là của Tạo Hóa. Họ có một tố chất đầy đủ của Trời Đất. Tố chất đó, cõi Tam Thiên Đại Thiên còn thấp kém hơn.

Nếu 100 ức Nguyên căn xuống thế chính là tố chất trong sạch, Thuần Dương của Tạo Hóa bị dấy ngoài trần cấu đó.

100 ức Nguyên căn này họ đâu cần phải học thêm cái gì của cõi Tam Thiên trong khi Tánh Trời vốn đủ đầy Chơn Tánh.

Bộ Tây Du Ký ví Tề thiên là Ngôi Hai tại thế đó : Sanh ra tại Địa-cầu không Cha Mẹ (Cha Trời, Mẹ Đất) nên Trời Đất có gì Tề Thiên có nấy.

Cõi thế có 72 Chơn Khí đổi dời, biến dịch, Tề thiên cũng có 72 phép huyền công thông hành Tam Giới, đồng vai Thượng Đế, “tốt nghiệp” lò Tạo Hóa của Đạo Tổ.

Vậy Tề Thiên cần gì ? Chỉ cần một xác thể đủ Ngũ Khí. Luyện xác thể đó cho Thuần Dương rồi nhập vào xác thể đó mà chứng quả vị trong Trời Đất. Suốt quá trình tu của Tam Tạng, Tề Thiên không phải học thêm gì cả.

Chỗ Huệ Năng nói : “Bồ Đề (Ngôi Hai) vốn vô thụ, đâu dính bụi trần ai, đâu cần phải lau chùi”.

Phật dạy đó là Tánh Chơn Như. Hễ bỏ hết các niệm thì thấy được Chơn Tánh là thành Phật.

Tam Tạng đuổi Tề Thiên là chưa thấy Tánh. Tới gần Lôi Âm Tự, lọt vào Lôi Âm Tự mới kiến tánh. Thấy được Bản Tánh thì đâu có vòng Kim-cô, đâu có chỗ để đuổi Tề Thiên !

Page 39: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

39

Khi 100 ức Ngôi Hai xuống trần, mượn Thai- bào xác phàm mà sống chung lộn với chúng hóa sanh, lấy Tánh thiện lương mà cảm hóa, dựng gầy nền Đạo Đức cho nhơn gian.

Tại nơi cõi Địa-cầu này có đủ Âm- Dương nên cần một xác thân đủ Ngũ Khí mà luyện cái thân phàm ấy ra Kim Thân. Dùng Kim Thân này để chứng đắc…

100 ức Nguyên căn xuống thế từ đầu Thượng Ngươn đến nay. Nên thời đại hôm

nay Đấng Tạo Hóa lâm trần ban Sắc Chiếu rước Nguyên căn trở về. Và đem Chơn Pháp xuống trần cho Nguyên căn nương đó mà về. Có sự hỗ trợ của vô lượng Chư Phật Tiên đứng ra che ngăn nghiệp cửu nàn để Nguyên căn thoát tục hồi Nguyên.

Thầy đã làm hết rồi : - Quyết Chiếu thu hồi Nguyên căn. - Đem Chơn Pháp xuống trần. - Chư Phật Tiên đồng thanh hỗ trợ. Lòng Trời là vậy mà chúng sanh cứ ngẩn ngơ, hiểu không thấu Thiên cơ, làm

không đúng việc. Thầy đâu có trao Pháp cho tay phàm. Sao ta lại trao cho người tự chọn, phải Ngôi Hai không vậy? Định đưa họ về đâu trong chốn Tam Thiên ?

Ôi chúng sanh ! B-VÌ SAO THẦY QUYẾT ĐỊNH RƯỚC NGÔI HAI VỀ ?

Trở lại vấn đề Đèn Thái Cực và 100 ức Đèn Ngôi Hai. Khi 100 ức Đèn Ngôi Hai đồng cháy sáng, Đèn Thái Cực vẫn y bản thể nhưng

nếu gộp 100 ức Đèn về Một với Đèn Thái Cực thì sao ? Khi trở về nhất thống như vậy thì Đèn Thái Cực lớn ra, không nhỏ nữa. Mà trong

thể thống nhất đó, cá thể Ngôi Hai cũng không mất đi. Khối chung ấy chính là Khối Đại Linh Quang. Khối Đại Linh Quang càng lớn thì Dương luôn thắng Âm. Sự ổn định cho toàn

Quả Càn Khôn, an lành cho Cơ Sanh hóa, toàn Tam Thiên thạnh phát. Âm không lấn Dương được.

Vị trí của Thầy Trời thì phải công bằng Âm- Dương, cho nên Sanh- Diệt luân phiên. Từ Cơ Sanh hóa đến Quả Càn Khôn không ổn định và Âm- Dương huân hòa.

Nguyên căn trở về cõi Thượng là lúc Dương thạnh ở trên, Âm suy ép dưới.

Từ Bĩ lên Độn Cấu Kiền (Thuần Dương)

Có nhiều tài liệu nói rằng khi 100 ức Ngôi Hai lâm phàm thì Trời sai Thiên Sứ Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ cũng lâm trần chăn coi Cơ Sanh hóa của Trời tại Địa-cầu.

100 ức đầu thai tản mát vào chúng sanh khắp Địa-cầu. Bổn tánh Nguyên căn thiện lương gần Trời không thích sát sanh, hại đời.

Page 40: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

40

Đức Lạc Long Quân với Mẫu Âu Cơ sanh ra giống dân, cho là Trung Ương của nhơn loại : Da vàng, để sau này làm cơ bản Đạo Đức cho nhơn loại roi theo.

Giống dân đó chính là người Việt Nam ta hôm nay. Khi Đức Lạc Long Quân còn tại vị đã tập hợp được rất nhiều Bộ-lạc hoang dã

lập thành xã hội Bách Việt rất thạnh phát. Vì lãnh Thiên trách phải tu cho Đắc Đạo để dẫn dắt Nguyên căn nên Đức Lạc

Long Quân đi tu, chia tay Đức Quốc Mẫu Âu Cơ, sau đắc Phật vị là DI LẶC. Là người Đắc Đạo đầu tiên trên Địa-cầu nên Phật là Giáo Chủ của Địa-cầu, cả

hai mặt Hữu hình và Vô vi. Phật đã đưa ra và để lại một lời tục truyền làm Thông Điệp cho nhân loại. Thông Điệp đó như sau : Lạc Long Quân lấy Bà Âu Cơ sanh ra cái Bọc. Bọc nở 100 con. Lạc Long

Quân nói với Âu Cơ : “Ta là giống Rồng, nàng thuộc Tiên, không sống lâu được. Nay ta dẫn 50 con Nam xuống biển. Nàng dẫn 50 con Nữ lên non…”

Ta triển khai Pháp Điệp : - Mẹ Âu Cơ sanh một Bọc là Vô Cực. - Trong Bọc có nguồn năng lượng nằm chung một thể . Đó là Thái Cực. - Thái Cực sanh Âm- Dương đồng năng lượng là 50 (50 con Nam, 50 con

Nữ). - Trong Âm có Dương, đó là Khảm cung (Trong Nữ có Nam). - Trong Dương có Âm, đó là Ly cung (Trong Nam có Nữ).

Một lúc kia Đức Lạc Long Quân đi tu đã dẫn 50 con Nam xuống Biển, còn Mẹ Âu Cơ dẫn 50 con Nữ lên Non.

Đây là chỗ lập lò chảo lại. Khảm- Thủy về Biển. Ly- Hỏa lên Non. Khảm-Ly là hai trọng tố cho Nguyên căn luyện Đạo. Vì Khảm-Ly do Càn

Dương giao hợp với Âm Khôn mà sanh. Nay qui trình đưa Khảm-Ly trở lại Càn-Khôn.

Qui trình chiết Khảm, điền Ly là lúc nhọc công của người tu. Khảm là Dương Thủy (Nhâm Thủy) ở Thượng Thận. Ly là Dương Hỏa (Bính Hỏa) ở Tâm. Tịnh động là phương án thi công cho Dương Hỏa giáng hạ, khắc Dương Thủy

thăng lên. Xong qui trình này thì Khảm-Ly đổi hình dạng trở lại Càn-Khôn. Càn là Ngôi Hai Chơn Tánh : Dương Chơn Như Tánh Thể. Khôn là thể xác sạch trược, gần với Dương. Càn Khôn hợp nhất chứng đắc giải thoát thành Phật. Khi còn qui trình chiết Khảm điền Ly thì phải giữ gìn lửa nước xuống lên ( lên

Non, xuống Biển). Trong phép tu chơn có đoạn dạy : Thêm bớt đừng sai khi xuống biển, Ít nhiều giữ đúng lúc lên Non.

Page 41: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

41

Còn số 100 (50 Nữ +50 Nam) do ở đây : Quả Càn Khôn có Bát Quái Đồ Thiên. Tiên Thiên Quái Đồ có tổng số là 45 :

45 = 1+2+3+4+5+6+7+8+9. Quả Địa-cầu Khôn có Bát Quái Hậu Thiên. Lạc Thơ Quái Đồ có tổng số là 55:

55 = 1+2+3+4+10+6+7+8+9+5

Lấy Hà Đồ Càn mà hợp với Khôn Hậu Thiên (45+55 = 100) là nói chỗ sanh hóa của Thiên Địa. Là Cha Mẹ đẻ chúng con trên Địa-cầu và đi tu thành Phật để cho chúng con roi theo.

Khi thành Phật, đức DI LẠC ở trong khối Đại Linh Quang của Trời nên rất rõ Thiên cơ.

Đức Quốc Phụ hiểu rõ sẽ xuống trần lập ra CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO tại Việt Nam nên Phật để lại Thông Điệp nhằm Thông Báo cho nhân loại thời đại hôm nay đó.

Đó là khái quát con người trên Địa-cầu trong Cơ Sanh hóa. Nay nói thêm Nguyên căn (Ngôi Hai) Đức Thượng Đế ban Sắc vào CHIẾU

MINH để chính Thầy dắt về, còn Hóa Nhơn thì phải tu theo nhịp tiến của Đại Đạo, có nghĩa là :

Từ Địa-cầu phía dưới chuyển qua phía trên, tái sanh ở vị trí phía trên (vô số kiếp), lại thăng tiếp lên Nhất cầu, qua khỏi 72 Địa-cầu tại Nam Thiện Bộ Châu, lại tái sinh vào Tam Thập Lục Thiên, đi qua 300 ngàn thế giới mới sạch trần cấu, hiện hình nguyên bản như Ngôi Hai.

Trong vô lượng kiếp thật là :

Trùng trùng muôn khổ cõi giới ba, Không biết nơi đâu mới gọi nhà? Tu đứng, tu nằm rồi vạn kiếp. Vậy mà sanh tử vẫn thăm qua!

Càn Khôn một quả cũng tròn tròn, Trong giữa có chừng tỷ quả con. Chuyển dịch chậm nhanh kêu “cót két”. Rơ “Đùm” chệch hướng chẳng còn ngon.

Còn ngon thì phải ngó lên trên, Một cõi Hư Vô quá chắc bền. Thái Cực Cha Trời đang trụ vững, Kêu con dìu dẫn ráng về lên!

Về lên quê cũ vốn không tên, Trước rổng sau Không rất chắc bền, Muôn thuở nghìn đời không biến dịch, Kêu nhau trở gót kíp về lên!

Page 42: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

II- CƠ KHAI HÓA NHÂN LOẠI (Bài 22)

A- CƠ QUAN KHAI HÓA NHÂN LOẠI

Lúc sơ khai của Cơ Sanh hóa Địa-cầu có Tam Hoàng giáng thế rồi Ngũ Đế lâm trần. Đó là đầu Thượng Ngươn, Địa-cầu chưa có Nguyên căn xuống thế.

Tam Hoàng, Ngũ Đế chỉ dạy Hóa- nhơn phần Nhơn- Đạo hạ lục, dạy chúng sanh canh tác, trị bệnh, sống theo thiên nhiên, qui tắc giao thoa tương quan trong xã hội.

Sáu (6) ngàn năm sau Nguyên căn lâm trần có sự xuất hiện của Đức Lạc Long Quân và Bà Âu cơ.

Đức Lạc Long Quân tu Đắc Đạo đầu tiên trong nhân loại trên Địa-cầu. Có lẽ lúc này Phật Thích Ca dạy Đạo tại Trung Á. Trong quyển Di Lạc độ thế Chơn Kinh có nói : Khi hai vị Phật Di Lạc và Thích Ca đã thành tựu viên mãn việc độ đời tại nhân

gian thì Hai Vị Phật đồng về cõi Trời thứ 13 trong Tam Thập Lục Thiên an trụ. Một lúc khi Địa-cầu vào giai đoạn cuối Trung Ngươn, đầu Hạ Ngươn thì Phật

Thích Ca đoạt Long Hoa, xuống trần trước, Phật lịch đã 2.560 năm rồi. Nay đã đến lúc Phật Di Lạc ra đời thuyết Chánh Hội Long Hoa.

Thật rõ Phật đã ra đời và lập thành CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO, sắp xếp để đưa nhơn loại trở lại đời Thượng Ngươn. Nhơn loại đâu ngờ rằng Phật Di Lặc chính là Quốc Phụ Lạc Long Quân.

Nhân loại sống trên Hành-tinh này đã biết bao lớp chúng sanh.

Đối với Trời Đất, mục tiêu của sự sống này để làm gì ?

Muôn vật đều có Chơn Tánh của Trời. Chơn Tánh đó phàm nhân gọi là Tâm, là Hồn, là Thần, là Chơn Linh ….

Phật dạy : “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh…kiến tánh thành Phật”.

Mỗi chúng sanh là một vị Phật sắp thành. Thật vậy, chúng sanh đều có Tánh của Trời phú cho. Tánh đó nó thuộc Dương, luôn luôn hướng thượng để thăng lên trở về chỗ cũ,

cho dù Chơn Dương Tánh này ở bất cứ đâu trong các cõi Tam Giới. Tánh muốn ly tâm để thăng lên và lôi theo cái Thân tiến bộ hướng thượng. Nhân loại sống vì nhu cầu tiến hóa. Điểm tiến hóa cuối cùng đó là Khối Đại

Linh Quang của Thượng Đế. Chứ kỳ dư đó là lẽ diệu huyền của Tạo Hóa. Cái Tánh đó tự nó nhớ chỗ cũ cội nguồn. Tánh nhẹ thăng lên mà không dừng lại,

càng về gần Thái Cực Tánh càng thúc hối. Tánh đó cần, rất cần một xác thể hữu hình để thành Phật. Cho nên khi ở mọi nơi trong Càn Khôn, Tánh thì chỉ có một mà hình thể là vạn

hình của Thai bào.

Page 43: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

43

Thai bào cuối cùng mà Tánh hướng đến đó là Thượng Thai và Tánh ra khỏi Thượng Thai để kiến Tánh thành Phật, nhập vào Khối Đại Linh Quang.

Nhu cầu của Tánh là thành Phật. Trong cõi Tam Giới, xét tận cùng Tánh không phải học thêm cái gì nơi chốn đó,

là một trường nhân quả của mọi tầng lớp Âm-Dương. Nếu có thân thì đó là huyễn thân, nó bị sự bào gọt của Âm- Dương sanh diệt liên

tục trong tuần hoàn “Có” và “Không”. Nói trực diện Chơn Lý :

Tánh bổn thể vốn “Chơn Như”. Càn Khôn Đại Đạo là nơi Động-tịnh, mà là chỗ “dụng” của Tánh.

Vậy chỗ khai hóa nhơn loại của các Tổ là gì?

- Dẫn nhân loại kiến tánh quy nguyên. Chỉ và chỉ có vậy thôi.

Mọi sự cứu khổ của Chư Phật Tiên là lực tá trợ đa phương để Tánh thăng ra Tam Giới. Tại Địa-cầu, Đức Thượng Đế đã đem CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO đến với toàn thể chúng sanh nơi cõi Ta-bà ở thời điểm này với 2 mục tiêu tối trọng :

1- Cứu khổ chúng sanh và bình ổn Địa-cầu. 2- Đem Chơn Pháp xuống trần để độ dẫn Nguyên căn hồi nguyên.

Lời dạy của Trời Cha đối với chúng sanh gần như trút hết lòng yêu thương :

“…Vì con Thầy mới đến đây, Cạn phân lợi hại tỏ bày thiệt hơn… … Thầy đã dạy nhiều bài vàng đá, Con nỡ đành giữ dạ chắc đinh.

Con hư Thầy phụ chẳng đành, Con nên Thầy được phỉ tình ước ao”.

Nhân loại nhìn một cách tổng thể là sống, chỉ có xu hướng vật chất cục bộ, không có lòng để ý đến Tạo Hóa kề bên. Sống không hề biết mình đang ở trong hệ thống của Đại Đạo. Đang ở trên mặt Địa-cầu mà không hề biết mục tiêu của sự sống trong một hệ thống Trời Đất này.

Điều mà chúng sanh làm cao điểm của tri thức là các phương án giành ăn, giành quyền. Dầu cho sự tiêu diệt ở kế bên họ vẫn mạnh giành. Ôi đời !

Trải qua đã Ba Ngươn mà Đạo Hiếu từ nhơn loại tưởng chừng như chưa từng được Chư Phật Tiên, Cổ Thánh khai hóa. Nên mỗi lần Thiêng liêng lâm phàm để cứu độ đều bị cản ngăn và sát hại.

Lòng Trời thì hiếu sinh. Lòng người không rời hiếu sát. Thật là :

Họa đã dư nhiều gây họa nữa, Có thương đứng ngó liệu phương nào?!

Page 44: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

44

Thật đau xót khi phương án : “ …Phải để nhân gian tiêu diệt bớt !...được thạnh lành…” Thật đáng tiếc ! Đáng tiếc ! Nếu trước Đức Hiếu sanh của Cha Trời mà hôm nay chung quanh Đại Từ Phụ có

trùng trùng chúng sanh hoan hỉ vây quanh thì… Vậy mà vắng lặng. Chỉ có một số ít cự cãi nhau trước Điện Thầy. Còn ngoài chỗ

Tử Sanh, tiếng la, tiếng khóc, gần như đông nghẹt người ! Cơ Sanh hóa Đại Đạo thật là mênh mông, bao la, dầu có nói hết ra đây chúng

sanh cũng không hiểu. Thậm chí chúng sanh dường như không cần hiểu vì không nằm trong mục đích

danh lợi của cuộc sống hiện tại. B-CƠ SANH HÓA NHÂN LOẠI Ở ĐỊA CẦU

Vậy ở đây chỉ nói Cơ Sanh hóa của Địa-cầu :

*Mỗi cơ quan của Đại Đạo đều có khuynh hướng tiến tới sự hoàn hảo nhất, như : . Địa-cầu khi lăn quay trong hệ thống tuần hoàn Đại Đạo hình thể thay đổi cấu

trúc liên tục để đạt thông số một hình tròn. . Một Nguyên Tánh khi lâm vào Đại Đạo luôn có khuynh hướng đột phá qui tắc

Đại Đạo mà siêu Tam Giới thành Phật, là điểm cùng của Tánh.

*Mỗi chúng sanh kể cả muôn loài đều có tiêu điểm cuối cùng là Thành Phật mà các Hành-tinh trong Tam Giới là chỗ tạm trú của muôn loài khi thực hiện quá trình tiến hóa đó.

Trời có Tam Giới. Mỗi Cõi chia làm 3 Cấp : Thượng, Trung, Hạ. Người có Tam Điền. Mỗi Điền có 3 Khiếu. Tam Điền ứng với Tam Giới, tức là Cửu Khiếu ứng với Cửu Thiên.

Trong quá trình sống và phấn đấu nếu chúng sanh nào cuối kiếp sống phá thông được Khiếu nào thì sẽ có sự sống kiếp sau ở Cửu Thiên ứng với Khiếu đó.

Cho nên từ thú cầm tiến lên được Thai bào người thật gian nan. Từ Người phá thông Cửu Khiếu vượt qua khỏi Cửu Thiên, siêu Tam Giới mới

xong, không còn tiến hóa nữa.

1- Nhân loại trong trường hợp thoái hóa: - Nếu sống mà tích lũy quá nhiều Âm Khí, chúng sanh Địa-cầu (sống như vậy)

sẽ rơi vào một trong 3 trường hợp :

a- Kết thúc sớm cuộc sống và bị tụt hóa xuống các Hành-tinh thấp hơn, chịu các Định luật Âm Khí vô cùng khắc nghiệt. Khổ trùng trùng !

b- Bị tuột Thai-bào người mà sanh vào hàng Lục Đạo của muôn thú.

Page 45: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

45

c- Bị quản thúc tại một vùng Trời mà chờ đợi sự quyết định phán xét của Chư Thần.

2- Nhân loại sống tiến hóa:

- Nếu sống biết tích lũy nhiều Dương Khí, chúng sanh (biết sống như vậy) sẽ ở vào một trong 3 tình huống :

a- Tái sanh trở lại Địa-cầu làm Người mà hưởng những gì đã tạo về Danh, Lợi, Quyền, Phước, Lộc, Thọ.

b- Thăng lên Địa-cầu phía trên, có cuộc sống chất lượng tốt hơn Địa- cầu cũ và tạo các Công Đức xã hội, để qua nghìn kiếp lại đến Địa-cầu phía trên nữa. Cứ vậy mà qua 72 Địa-cầu (thấp nhất).

c- Nếu sống có 10 ngày ăn chay trong tháng thì được truyền Chơn Pháp, hoặc mất rồi được tập trung ở nơi thanh tịnh thọ Y Bát mà tu luyện thoát tử sanh, không trở lại các cõi nữa.

3- Cõi tạm nơi Tam Giới:

Hôm nay có một số Chơn Hồn của chúng sanh Địa cầu bị ở nơi Tam Giới, là nơi chờ, vì sau đây :

*Đa số nhân loại sống trên Hành-tinh đều có tổ chức Đảng phái Tam Giáo nên khi hết kiếp thịt da đến kiếp không của Chơn Hồn thì người của ai, ai nấy rước.

Đại đa số nhập cư tại cõi thứ 1, ở cõi Diêm- phù rồi dẫn qua 10 cửa ngục. Đến cửa thứ 12 thì lúc xuất cảnh theo phán quyết của Địa phủ mà trở lại 72 cõi

Nam Thiện.

- Có một số con nhà Phật Tử có tập quán thờ Phật nhưng không quy y Tam Bảo. Họ cũng tụng Kinh, làm các dịch vụ có liên quan đến Phật Giáo, nhưng mà khi mất đi, Chơn Linh bị từ chối, không cho nhập vào Quốc Độ Phật nên phải triền lại thành Nhơn trong chốn Trung Giới mà lình sình chờ phán quyết.

- Cũng như vậy, trong Thiên Chúa Giáo, Cao Đài Giáo cũng có hai nhóm “chờ”. Cho nên chúng sanh ở cõi ta bà cần ý thức khi chọn Tôn Giáo đi theo bên mình,

để làm chỗ dựa cứu cánh khi Hồn lìa khỏi xác ! Cần biết rằng trong công cuộc khai hóa Địa-cầu, Trời đã có mở 3 Kỳ . Có Nhị Kỳ, lẽ dĩ nhiên Nhất Kỳ bị bãi miễn. Mà có Tam Kỳ thì Nhị Kỳ không còn trách nhiệm.

Tam Kỳ thống nhất Giáo Đồ Tam Giáo thành Tòa Đại Đạo, là ngôi nhà chung cho nhân loại.

Page 46: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

46

Đã đến lúc nhân loại cần sớm thấy Đức Thái Cực là Cha chung của Vạn loại lớn. Phật, Tiên, Thánh, Thần, nhơn vật, côn trùng, thảo mộc, sơn xuyên…đều cùng một Cha Trời hóa sanh, dưỡng dục.

Từ điểm chung để con người không sanh tâm phân biệt, dứt bỏ mọi cái thấy sai khác, cùng chung sống, cùng tiến hóa.

C- ĐỊA CẦU CÓ HỎA NGỤC Trong Nam Thiện Bộ Châu có rất nhiều Hành-tinh, nhất là phía dưới cùng của

Trục Thái Cực. Đa số các Hành-tinh thiếu ánh sáng, chưa được đặc cứng nên Âm Khí bốc lên như mây mù ở là đà trên mặt đất, có nghĩa là lớp khí quyển dày đặc.

Vật chất khi sanh trong khí quyển rất dày. Những hành-tinh xa phía ngoài quả Càn Khôn còn khá, những Hành-tinh cận Trục thì xấu hơn, gần như không có sự sống và nguy cơ bị hút vào Trục và bị nghiền nát lúc nào đó.

Không phải Hạ tầng Nam Thiện Bộ Châu chỉ có 72 Địa-cầu có sự sống hữu hình, mà thật nhiều Hành-tinh có sự sống hữu thể Đơn bào, Nhị bào, Tam bào, Tư bào…

Hành-tinh có đủ Ngũ Hành thì Nam Thiện Bộ Châu chỉ có 72 Hành-tinh mà thôi, được phân bố cao thấp, trong ngoài quanh Trục Thái Cực.

- Cõi Ta bà Địa-cầu là Hành-tinh thứ 68. Cuộc sống hữu hình như thế này đây. Cái bản thể “Có-Không” của Đại Đạo thấy rõ ràng, lúc Có hình thể thì trơ trơ, rồi lúc Không lại chết đi. Âm-Dương hóa sanh, sanh diệt tuần hoàn.

- Cõi Ta bà Địa-cầu 69 nằm trong hệ thống chung của 72 nhưng có quỹ đạo ngắn trong Thái Dương Hệ khác của chúng sanh ở tầng thấp hơn. Chúng sanh thưa thớt, sống lệ thuộc thiên nhiên nhiều, chưa có dấu hiệu tiến bộ khoa học. Tuổi thọ so với con người thì chừng 45 tuổi là đã thọ rồi đó. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên làm sự sống nơi Địa-cầu 69 nhiều diệt mà ít sanh nên khổ lắm !

- Địa-cầu 70 có thể gọi là địa ngục được rồi. Nó thiếu ánh sáng, khí hậu ẩm ướt là ổ dịch bệnh và vi khuẩn. Dân số hễ có 10 chúng sanh thì có đến 30 gia súc. Do vậy mà Chơn Khí ở đây ít. Người và thú vật như đồng khí vậy. Chất thải của thú cầm bốc lên đều có trong khu dân sinh.

- Ở Địa-cầu 69 ít chúng sanh vì nơi đây là do chúng sanh tụt hậu từ hệ thống 72 cầu mà xuống nên rất ít. Trái lại tại Đại-cầu 70, chúng sanh tụt hậu rơi xuống đây quá nhiều. Tinh thần của họ hiểu biết tất cả, thậm chí chuyện Trời Đất cũng tường tận, nhưng do Hành-tinh đen này không cho họ một lối thoát nào hết và phải chấp nhận kiếp sống cực kỳ khổ khó muôn trùng.

Page 47: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

47

- Hành-tinh 71, 72 thưa chư chúng sanh. Trước khi ta triển khai nói về hai Hành-tinh này, tôi xin dài dòng một chút .Ta hãy xem lại Hạ Đơn Điền của mỗi chúng sanh. Ở đây có hai cửa thoát trược từ trên dồn nén xuống : Đó là cửa Tiểu và cửa Đại.

- Cửa Đại có cơ quan là Tiểu và Đại tràng (5 đoạn Tiểu tràng + 5 đoạn Đại tràng).

- Cửa Tiểu có cơ quan là Bàng quang. - Hai cửa này chứa chất nặng nhất, dơ nhất. Nó xuống chỗ thấp nhất cơ thể con

người để thoát ra ngoài vì bị tuần hoàn Nhơn Đạo loại bỏ.

Tôi xin phép được nói thêm : Trong một cơ thể nhỏ như ta từ chỗ ta ăn uống là miệng, khi ta ăn gọi là Đại yến

tiệc, mời « thập phương chư tăng đồng thọ dụng ». Ít giờ sau « Đại yến » đó lưu hành từ cổ xuống Đơn điền, chúng trở thành « phân », khi bị thải ra ta phải chạy trốn chỗ kín, giải quyết rốt ráo một mình mà không cần lập « Đại hội tiểu tiện » như Đại yến. « Đại yến » thật là Đại trược !

Vậy trong Quả Càn Khôn tròn tròn có tỷ tỷ quả con dồn nén chất trược xuống tận cùng là bao nhiêu?

Ta nói con cá sống ở đáy biển sâu vì cả biển nước đè lên thân nó nên nó có dị hình. Nếu nó không có nội lực kháng lại lực nén này nó sẽ chết ngay.

Muôn sóng ngoài xa khơi vỗ vào bờ. Hai Hành-tinh 71, 72 này cũng vậy. Nó chịu sức nén đè của toàn Âm trược đè lên. Sự sống ở đây là điểm cùng của mọi tầng số nghiệp Âm. Do vậy mà Trung tâm nơi này hình thành lên một Trung tâm dữ liệu Âm phủ gọi là Nghiệt Cảnh Đài. Nó có khả năng cất giữ mọi dữ liệu cá nhân, tập thể, bất cứ mọi thời điểm.

Trái lại tại các cõi Thượng Thiên Niết Bàn như ở cõi A Di Đà Phật mà muốn xem một Vị Phật nào đó có quá trình tu chứng của Phật hay xem sự thành lập võ trụ… thì Trung tâm cất giữ dữ liệu Dương phần sẽ ứng ra bất cứ thời điểm nào…

Các Trung tâm dữ liệu ở Thượng Thiên, chư Tiên Thánh chúng chỉ nhu cầu tán thán công đức của Chư Phật.

Trái lại tại Nghiệt Cảnh Đài chỉ sử dụng để xét án và phạt lại hình án mà chủ điểm tội đồ đã gây ra.

Thí dụ : Lúc sống hiếp đáp người như thế nào thì nay bị chủ nợ hiếp lại, hơi có lời đó, hoặc bị Quỷ Dạ Xoa thi hành án y như người ta đã làm trước đó vậy.

Trong Ngũ Giới Cấm, mỗi Cấm sanh ra 2 địa ngục (5 x2 = 10). 12 Địa-ngục nhưng chỉ có 10 Hỏa ngục. Chỉ có 10 Địa ngục là có hình phạt.

Hình phạt này trước đã gây cho kẻ khác. Hình phạt này ở chỗ tận cùng võ trụ, là lúc người ta nhận lấy tần số mà họ đã tạo ra trước kia, nay nó trở về cho người tạo ra nó.

Nếu mà thấy được cảnh này, có lẽ tại nhân thế không ai dám hại ai hết. Khi phạm nhân tịnh tâm cũng không thấy quỷ Dạ Xoa, cũng không thấy đối tác

đòi nợ. Khi nghiệp xoay đến thì tất cả cảnh hãi hùng xuất hiện. Chơn Linh phải trải

Page 48: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

48

qua 10 công đoạn để đến công đoạn thứ 12. Nếu còn nghiệp dư thì tái sinh lên nhơn gian mà trả tiếp, có nghĩa là lập trình của kẻ hồi dương được lập từ đây.

Ôi ! Muốn vượt Tam Giới phải qua 9 Khiếu. Thậm thâm hơn muốn khỏi Địa ngục phải qua 12 cửa. Có thể nói rằng muôn

hình thức khổ ở thế gian đếu có rất dồi dào ở Địa ngục . Nó có rõ hơn vì sao ? -Âm Khí ở Địa-cầu 68 còn lợt nên cảnh Âm (khổ) rõ mà còn mờ hơn (khổ mà

còn chịu nổi). -Âm Khí ở Địa phủ 71, 72 dày đặc nên cảnh Âm (khổ) rõ mồn một (tận khổ)

không lối thoát, hết khổ nợ này liền kề khổ nợ khác. Lúc trên nhân gian tạo ác thì cười thỏa thích, nay đến lúc trả nợ thì khóc kêu thảm thiết.

Biết sao giờ chúng sanh ơi ! Nghiệp dư tạo đào ai biểu đó ?

Nếu hiện tại hiểu rồi nhanh nhanh hồi đầu tranh thủ lập đức và ăn chay lo tu . Vì sao ? Nếu ăn chay tạo cho thân tâm có Dương Khí, lập đức trừ ác đạo đã gây thì ác

xưa có thiện trừ. Thân tâm có Dương Khí thì địa ngục không phải là chỗ đến. Ấy là con đường tránh xa Địa ngục đó. Chúng sanh khá biết à !

Thời gian bị quả nợ tại Địa ngục cầu 71, 72 rất dài lâu. Tuy nhiên mỗi độ Lễ có ân xá tội Hồn như ngày 15 tháng 7 hằng niên. Luật Tạo Hóa Thầy đại xá và ban ân cho người con có Đạo Hiếu. Nếu có cầu xin cho Cha mẹ bị đày đọa Địa ngục thì ngày đó (Vu Lan) cầu xin cũng được Tạo Hóa xét chuẩn.

Các tình huống Đạo Đức phát sinh, thành tâm cải hóa, hướng thiện đều được sự cứu khổ của Địa Tạng Vương Bồ Tát và Quan Âm Bố Tát rất kịp thời. III- THĂNG TRẦM CỦA TAM THAI (Bài 23)

1/ Hạ Thai : Thảo mộc

Không hoàn toàn là sự sống Đơn bào mà có đủ Ngũ Hành nhưng còn dạng hỗn hợp chưa tự lập thành cơ tạng độc lập như ở Trung và Thượng Thai.

Ta thấy củ Sâm và các loài thảo mộc khác có đủ Ngũ vị đó là Ngũ Hành chưa tập kết hoàn chỉnh.

Thảo mộc có bộ tuần hoàn từ cao thẳng xuống mặt đất. có thể nói rằng Đầu xuống dưới và Chân đi lên. Cơ quan vận hành cho sự sống bên trong cây là Bộ tuần

hoàn, chính là Bát Quái Đồ của cây đó. Ở cây cung bị trầm xuống mà cung

lại lên trên.

Qui luật số 1 (vật chất ít Hào Dương ở giữa)

số 9 (vật chất nhiều Hào Âm ở giữa)

Page 49: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

49

Có nghĩa Khảm là sự sống ở trong lòng đất mà bật dậy từ lúc bùng lên (vì tính của Dương luôn thăng thượng).

Sự sống (Bát Quái thảo mộc), cây cối cũng hướng thượng để tiến hóa. Thảo mộc có gốc nguyên sinh ở Châu này dưới sự quản lý trông coi của Chấn

Đại Tiên (Ông Tiên đầu tiên tại cung chấn, tức là Thanh Đế).

Tác giả của Tây Du Ký nói ở đây có cây Nhơn Sâm là cây có đủ tố chất của một con người, đến đổi trái của nó giống ngoại hình trẻ con.

Và Chư Phật đã thành và Chư Phật sắp thành phải ăn nó thì đủ chất ngay.

Tóm lại trong Trời Đất , cây thảo mộc có gốc quay xuống (Khảm ) rồi dần dần mới tiến hóa, đến một lúc nào đó rơi vào Thai bào phía trên.

Cung Khảm cũng nói lên được Triết lý của sự sống .

Hào Dương của Càn nằm giữa cung Âm Địa-cầu. Hào Dương đó là cội nguồn của sự sống. Cung Khảm là nguyên lý của Vạn thù

vậy.

Hạ Thai 2/ Trung Thai : Thú cầm.

Thảo mộc tiến hóa (cung thăng lên) dầu Bát Quái chủ thảo mộc đã ngóc đầu lên : Khảm- Ly cân bằng, đầu chân ngang nhau. Lực tuần hoàn này là Thai bào của muôn thú, có đầu (não bộ), đít (cứt đái) cân bằng. Âm-Dương hỗn tạp trộn lẫn nên thú cầm không thông minh là vậy. Và sự sống không dừng lại, Khảm cung tiếp tục thăng từ bộ tuần hoàn nằm ngang dần đến bộ tuần hoàn thẳng đứng.

Trung Thai

3/ Thượng Thai : Con người.

Page 50: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

50

Thượng Thai

Thú cầm tiến hóa (cung lên trên Ly trở xuống) đến lúc nào đó bộ tuần hoàn đứng thẳng, cung Khảm đã thoát lên cao là lúc thú cầm đã tiến hóa qua Thai bào Con người rồi.

Ở Trung Thai con người có Bát Quái riêng của mỗi cá thể. Cung Khảm là đầu hướng lên (nó còn tiếp tục hướng lên đến Tiên Phật) tạo

thanh bộ tuần hoàn thẳng đứng, là lúc Đầu là Dương và cứt đái là Âm được tách ra, trên dưới phân biệt rõ ràng khi sinh hoạt :

-Đi - Đứng - Ngồi - Nằm.

Chỉ có nằm Con người vô tình trở lại đồng với thú cầm vì khi nằm thẳng bộ tuần hoàn nằm ngang, đầu-đít Âm-Dương hỗn tạp như thú cầm.

Do vậy mà chư Phật và thiền sinh ngồi suốt.

Ba qui tắc trong sự sống Địa-cầu cho ta 3 giá trị thật rõ : Thảo mộc- Thú cầm- Con người.

Có nghĩa là 3 Bộ tuần hoàn này hễ đồng chất thì nó hút thu vào, khác chất thì nó thải, đẩy ra.

Khi trong cuộc sống mà người gần kề liên tục với thú tánh, hoặc hay ăn thịt thú, mặc dầu Bộ tuần hoàn Con người, nó thải ra nhưng thải chưa rồi lại ăn vào tiếp, do đó mà người đã thú cầm hóa chính mình rồi thì tránh sao khỏi Thai bào của thú đó.

Vì khi ăn thịt nó quá lâu, ta vô tình biến ta thành thú rồi. Nay thú khi hút lấy Chơn Hồn của ta thì đâu phải sái. Đó là Bộ tuần hoàn ta suy thoái trở lại thú cầm đó !

Có cái miếng ăn mà ta đã lại vật mà còn hại ta nữa. Đâu phải bao nhiêu đó rồi hết đâu, còn phải xuống Địa-cầu 71. 72 để trả nợ

miếng ăn đó ! Trả xong rồi trở lại Dương gian mang kiếp thú cầm đền oan khiên.

Thật chỗ Đức Thái Thượng dạy : “ Cầm dao mà giết dần công đó mà”.

Page 51: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

51

Kẻ dữ xuống đến Địa ngục rồi mà còn đấu tranh sanh tử với nhau tạo ra một môi trường hỗn loạn.

Thương con người hiền lỡ làng lúc vô minh tạo gây oan trái, giờ sa chân vào chốn tội đồ bị cuốn theo dòng khổ, lòng ăn năn muốn thoát ra mà không thoát được . Ta thương và khóc vì kẻ đó ! Ôi ! IV- ĐẠI PHONG THẦN BẢNG (Bài 24)

Trong Tam Giới, 3 cõi này chia mỗi cõi làm 3 cõi nhỏ theo tầng lớp Trục Thái Cực. Do vậy mà có Cửu Thiên.

Chúng sanh các cõi dưới chuyển hóa dần lên theo các cõi trên. Tổng quát thì thấy 9 cõi. Kỳ thật có trùng trùng, lớp lớp Hành-tinh được phân

cao thấp, trược thanh trong Tam Giới. Chúng sanh trong Tam Giới tiến hóa theo một chuỗi giá trị từ Hạ Giới dần lên

Trung rồi Thượng Giới như :

- Chúng sanh tại Địa-cầu 68 này qua một Ngươn (129.600 năm) thì có thành lập một Đại Phong Thần gồm tất cả chúng sanh sống đủ tiêu chuẩn Trời định sẵn.

Bảng Phong Thần này được hình thành suốt thời gian một Nguyên. Đến cuối Nguyên (tức năm thứ 129.600 ) thì tất cả các Chơn Hồn đã ghi trong

Bảng Đại Phong Thần sẽ được chuyển hóa vào Hành-tinh tương ứng bậc Thần mà di trú.

Lúc sống là Có, lúc chết là Không. « Có-Không » là cái dụng của Tạo Công Đại Đạo. Đây là tất cả chúng sanh trong Tam cõi nói chung đều nằm trong là Thiên Quân Đại luân hồi đó vậy.

Trong lòng ống Trục Thái Cực là Đại Đạo (Đại lộ), giao khí xuyên suốt Tam giới. Nói theo trần gian cho dễ hiểu, từ con đàng lớn từ Hạ Giới Địa-cầu 71, 72 lên Thượng Giới cõi Tam Thanh mặc dầu là đại lộ hanh thông nhưng có thứ lớp thấp cao mà Đại Đạo này sanh ra các cổng Trời của mỗi Châu.

Cổng Trời của mỗi tầng Thiên-Hà (Tam Thập Lục Thiên). Cổng Trời của một Thái Dương. Cổng Trời của một Địa-cầu cá thể. Từ con đường Đại Đạo chung trong ống Trục

Thái Cực đi ngang qua Hành-tinh 68 của ta có ngả 3 tẻ vào Địa-cầu gọi là Ngã ba Âm Dương gồm :

- Nẻo xuống Địa ngục thì tối mờ mờ như ban đêm ở thế gian này vậy, vì các Hành-tinh phía dưới không có Mặt Trời. Mặt Trời của Thái Dương Hệ khác xa quá không rọi tới được.

Page 52: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

52

- Nơi lên Thiên Giới thì sáng hực hỡ Chơn Khí vô cùng nhẹ nhàng. - Nẻo xuống thế gian, tiếng dế mèn rỉ rả, người qua lại tất tả âu lo. Ánh sáng như

nửa có, nửa không, giống như trăng lu ngày 19 vậy - Tầng lớp Chơn Linh bị ức chế vào lớp cửa ngục môn, tiếng khóc ôi khủng

khiếp ! - Tầng lớp từ ngục môn trở về cõi 68 họ nhớ tử sanh, khổ đau, nhơn quả, trả

vay…Các Chơn Linh khóc nức nở vì phải tái sanh trả cho rồi oan trái. - Rất ít chúng sanh có đủ tiêu chuẩn nhẹ nhàng mà trỗi bước lên nẻo về Thượng

Giới. Tôi thử đặt ra đây câu hỏi : Tại Ngã ba Trời và Đất ( Ngã ba Âm-Dương , chúng sanh đi con đường nào ?

- Chắc chắn 100% chúng sanh muốn đi ngả lên các tầng Trời cao hơn nhưng muốn đi thì khi sống tại trần gian phải sống làm sao cho đạt tiêu chuẩn.

Đường lên Thiên Thượng thấy có 3 loại khách mà rất ít, đó là :

- Có Chơn Linh được chư Thiên cầm phướn linh tiếp độ (phải dắt, phải dìu mới đi được vì nặng quá).

- Có Chơn Linh phải đem kiệu mà lôi về (phước nó có nhiều mà trược nó thậm đa. Kiệu chẳng qua là xe để kéo nó về). Kiệu đây chẳng qua là xe cần cẩu vậy.

- Có Chơn Linh tự đi thong thả dường như người cũ quen lối xưa. Đây là các Nguyên căn lúc sống họ đã tu giải thoát, nay trở lại cõi Tam Thiên là

chốn cũ, quê xưa, họ thong thả, đi mà như bay, như mây, như gió vậy, không cần ai điều dẫn, thật tự tại.

- Tôi nói rõ thêm là các cổng Trời (Thiên Môn) không ngăn họ được. Thậm chí có những Nguyên căn chấp pháp chứng quả Ngôi Hai trở lại Thiên

Môn, đẳng đẳng chư Tiên Phật đến chầu mừng. Vì Thượng Giới là chỗ vô sanh, muôn năm nghìn thuở dân số cố định. Nếu có

xuống trần thì vắng người đó. Số còn lại mỏi mong người đi vào Tam Giới sẽ trở về. Như Đại Từ Phụ và Đức Phật Mẫu nhớ Nguyên căn, đã lâm phàm quên mất

đường về nên lập Chiếu Đại Xá đem Pháp lâm phàm triệu về cho hết.

- Vậy quý Chơn Huynh nên nhớ nếu độ không phải Nguyên căn thì Huynh dẫn họ về đâu trong cõi Tam Thiên ?

Trong khi Thượng Giới không có hộ khẩu của họ và từ chối không cho di trú !

- Đại Từ Phụ có cấp cho Huynh một Hành-tinh nào để trụ trì không ?

Huynh dẫn hết những người Huynh tự độ về đó. Huynh làm Giáo Chủ chịu trách nhiệm trước Đức Thượng Đế về thế giới độ tha

của Huynh từ đó vậy. Cho nên việc tự độ hôm nay không cần thấy thì tự Huynh liệu lấy.

Page 53: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

53

V- TIỂU THIÊN ĐỊA ĐỒ- ĐẠI THIÊN ĐỊA ĐỒ (Bài 25)

Trong lòng Trục Thái cực là một Đại Đạo (con lộ cực kỳ rộng lớn, kết tinh từ

Thượng Giới xuống đến Hạ giới Nam Thiện Bộ Châu. Đến Trung Giới nó tẻ ra một Âm lộ nữa, cắt Trục Thái cực thành Chữ Thập, ngã

tư tỏa ra ngoài bìa Quả Càn Khôn là bốn đại Bộ châu đó. Ta có thể nói dễ hiểu : Quả Càn Khôn như một ổ mối. Ổ mối này bị ném vào chỗ

Hư Không đang bay vèo vèo như thuyền không bến đỗ. Trong ổ mối đó có hàng tỷ Quả Đất, Mặt Trời, Mặt Trăng…

Càn Khôn một Quả tròn tròn, Trong ruột có chừng tỷ quả con.

Bên ngoài Càn Khôn là bầu Hư Vô không cùng tận, bên trong Quả Càn Khôn là một cấu trúc thành lập từ động lực Âm-Dương mà Âm-Dương là cái dụng của Thượng Đế.

Quả Càn Khôn là cơ thân của Đại Thiên nhỏ gọi là Tiểu Thiên. Nay đem con người nhân lên 10 muôn 8 nghìn lần sẽ to bằng Đại Thiên : Các cơ

quan nội tạng tế bào có khoảng cách và to phình y như ngoại Thiên vậy. Cột sống thành Trục Thái Cực.

Vậy vắn tắt cho dễ hiểu, là muốn rõ Đồ Thiên bên ngoài thì xét Lạc Thư nhơn thân tất rõ ngay.

CƠ THÂN LÝ ĐỒ THIÊN ĐỊA LÝ ĐỒ

Thai bào Người được khai sanh từ . Thiên-Địa Đại đồ và Ngôi Thái Cực có Một Lý, Một Khí của Thiên Địa mà có. . trước vạn hữu, khai sinh ra từ Âm-Dương. Nhơn thân có : Ngũ Tạng . Thiên Địa có : Ngũ Hành. Nhơn thân hóa : Tam Điền . Thiên Địa sanh : Tam Giới Nhơn thân có : Tam Thi . Thiên Địa có : Tam Thanh. Nhơn thân phân : 9 Khiếu . Thiên Địa phân : Cửu Thiên. Nhơn thân có : Tỷ tế bào . Thiên Địa có : Tỷ quả con Nhơn thân có : Thái Cực Chơn Tánh . Thiên Địa có : Thái Cực Nhơn thân có… . Thiên Địa có…

Page 54: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

A- TIỂU THIÊN ĐỒ- LẠC THƯ BÁT QUÁI

NHƠN THÂN TUẦN HOÀN ĐỒ

(Muốn phục hồi vị trí Khảm-Ly phải chiết)

Page 55: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

B- ĐẠI THIÊN ĐỒ - ĐỒ THIÊN BÁT QUÁI

ĐỒ THIÊN ĐẠI ĐẠO ĐỒ

Page 56: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

Trời Đất có gì, Nhơn thân người có nấy. Nhưng vì sao Khảm- Ly Trời Đất : Khảm nhẹ thăng lên mà Ly âm trầm xuống? Trái lại Khảm- Ly ở Cơ thân con người thì trái lại Ly trên mà Khảm dưới ? Lúc có Người trên mặt đất, Đầu con người vẫn hồn nhiên không suy nghĩ, sống

dựa vào thiên nhiên hoàn toàn nên cái gì của Tạo Hóa sanh ra đều còn nguyên bản. Do cuộc sống dần dần mọi dục tình ứng dậy, trong đó ái dục là nhu cầu cấp thiết trong hoạt động tình dục hóa sanh nòi giống nên Thủy Khí (Dương Khí Trời ở Khảm cung) bị dục tình hóa trược tinh mà lộn xuống và mở cửa ngoại thận (bộ phận sinh dục) thực hiện ái dục.

Nay Dương Khí của Trời bị khốn tại Khảm cung, Thận Thủy giống như Tề Thiên bị đè vậy.

Chớ lúc đi tu thì nó mới bật dậy mà thăng lên chỗ cũ được ! Đây cũng chính là điểm đầu của Pháp Điệp : 50 con lên non- 50 con xuống Biển

của Quốc Phụ Lạc Long Quân và Quốc Mẫu Âu Cơ. (Khảm –Ly đổi ngôi).

C- KHÁI QUÁT CƠ SANH HÓA TỨ ĐẠI BỘ CHÂU

1-Bắc Cưu Lưu Châu :

Các thế giới Thuần Dương, có sự sống vô hình hữu tướng. Các thế giới tầng cao gần Tam Thanh. Thường là Quốc độ của các Vị Tổ và

Giáo Chủ . Thầy ban phát cho các Vị Tổ, Giáo Chủ được độ chúng sanh ở các cõi dưới về. Với một số lượng kha khá thì thầy cấp cho một thế giới là Quốc độ mà tu tiếp.

Bắc Cưu Lưu châu dường như chỉ hưởng phước tu lai rai, vô lượng thời gian mới trỗi tiến được. Cuộc sống rất gần gũi với thiên nhiên, là chỗ cao trào tiêu điểm để chư chúng sanh phấn đấu đạt tới Sắc Giới.

- Đại chúng ở thế giới vô hình do các Địa cầu phía dưới trỗi tiến lên. Thầy không hay tạo Cơ Sanh hóa từ nguồn Âm-Dương ở thế giới này.

- Ở đây các Vị Giáo Chủ do Tiên Thiên Khí hóa sanh, cư ngụ tại tầng cao của Bắc Cưu Lưu Châu. Đạo lý ở đây do các Vị này dạy và ít khi gặp Thầy. Cuộc sống vô hình là sắc màu Tiên Phật. Đây là lãnh phận của Hắc Đế.

Trong quá trình luyện Đạo nếu còn thiếu Thủy Khí thì về đây bồi dưỡng cho Thủy Khí vượng để Bắc Đế triều nguyên.

Ta nhớ Tề Thiên tại Bắc Đế uống Linh Đan, được rèn luyện tại lò Tiên Thiên Quái Đồ. (Đó là Bắc Đế triều nguyên).

2-Đông Thắng Thền Châu:

Trên giáp Bắc Cưu Lưu Châu, dưới giáp Nam Thiện Bộ Châu : Là nơi tập hợp các thế giới Trung Giới, cũng có cuộc sống hoàn toàn vô hình, hữu tướng.

Chúng sanh ở các thế giới này đa số từ Thất Thập Nhị Địa đầu thai về. Một ít bị tuột hậu từ trên Bắc Đế xuống. Tập quán chúng sanh nơi đây thích trồng và chăm sóc

Page 57: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

57

cây nguyên sinh. Đại Thánh chúng đều phấn đấu cuộc sống tinh thần Đạo Đức cao, hòa hợp với thiên nhiên.

- Chủ Đông Thắng Thần Châu là Thanh Đế . Mộc vượng là nơi các Vị Chơn nguyên hội tụ để bồi dưỡng Mộc Khí cho Thanh Đế triều nguyên.

- Trong Tây Du Ký nói Chấn Nguyên Đại Tiên (Thanh Đế) có cây quý nhơn sâm. Ai muốn thành Phật phải ăn nó. Tề Thiên ăn còn nhổ gốc luôn (thâu hết Tinh) vì nhơn sâm là Tinh. Bát Quái là Tinh nên mới vừa đưa nhơn sâm tới miệng thì nhập thể (không biết mùi vị). Ăn nhơn sâm là Thanh Đế triều nguyên đó.

- Thánh chúng Đông Thắng Thần Châu không thuần phát như Bắc Cưu Lưu Châu. Tuy họ biết Đạo Lý nhưng Tham, Sân, Si, Đố tật còn nhiều Âm khí khá nặng, nhất là các thế giới giáp Nam Thiện Bộ Châu.

3-Tây Ngưu Hóa Châu :

Thuộc Canh Tân Kim, Quốc độ của Bạch Đế. Trên giáp Bắc Châu, dưới giáp Nam Thiện Bộ Châu.

- Cơ bản ở đây là Châu Dương Khí, thuộc không gian các Pháp hữu tướng vô hình, thường tập trung các Quốc độ như :

+ Quốc độ Tây Vương Mẫu. + Quốc độ Phật Thích Ca. + Quốc độ Phật A Di Đà. + Quốc độ Chiếu Minh (Tây Ngô Ô Cực Thiên Lạc). + Quốc độ Khổng Thánh. … - Là nơi bồi dưỡng Kim Khí cho chư Thánh trong giai đoạn quy Tam Ngũ. - Tây Ngưu Hóa Châu là Châu của Thánh Hiền sống hưởng nhàn lạc và tu tấn,

phước Trời dư thừa, thân phi khắp thế giới dự thính Pháp hội : Cao minh càn kiện tiến hóa khôn cùng.

- Tề Thiên sung mãn Kim Khí, thọ dụng Đạo Tiên tại gốc. Một mình dự hội vừa hưởng vừa quăng. Ấy là Bạch Đế triều ngươn.

- Thánh chúng ở Tây Ngưu hóa Châu đa số ở Thất Thập Nhị Địa thăng về để tiếp tục tu tiếp .

4-Nam Thiện bộ Châu :

- Là Châu thấp nhất của Đại Thiên, giống như Hạ Đơn Điền của Cơ thân Người vậy . Nơi đây tập hợp các Hành tinh Âm Khí nhiều. Có 72 Hành tinh có sự sống hữu hình, trong đó nhân loại của chúng ta ở vị trí Địa cầu 68.

Chúng sanh ở 72 Hành tinh này đa số do Âm-Dương giao hợp và có cơ Sanh hóa. Trong địa cầu 68 có sự di trú của Nguyên căn. Vì cuộc sống hữu hình nên có sự

Page 58: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

58

văn minh vật chất nhưng thường không biết Tạo Hóa hay bất tín Đại Đạo, nhơn quả chập chồng.

- Địa cầu 69 thưa dân, biết sử dụng điện nhưng còn rất thô sơ. Họ sống và phải đấu tranh với bệnh tật nên yểu thọ và phát triển rất chậm.

- Địa cầu 67 trở lên khá văn minh nhưng không biết đến Đại Đạo, hay làm mất cân bằng Hành tinh.

- Các Hành tinh cao hơn trái lại sống hợp thiên nhiên môi trường và không chú trọng đến vật chất nhiều.

- Cuộc sống tuột hậu trong Thất Thập Nhị Địa bị dồn về Địa cầu 69, 70, 71, 72. Trong các Hành tinh này, đa số mang lấy gia súc, thú cầm nên thú khí đầy ấp khí quyển, là cái ổ của dịch bệnh. Đấy là thế giới dữ liệu nhân quả bị dồn ép đến điển chủ của nó.

- Nguyên căn muốn thoát khỏi chỉ có tu luyện mới xóa được danh bộ Đại sinh (như Tề Thiên xóa đó). Khi xóa là Xích Đế triều ngươn đó.

D- SẮC CHIẾU QUY NGUYÊN- CHIẾU TRIỆU- QUỐC ĐỘ

1- Sắc Chiếu Quy Nguyên:

Người tín đồ Chiếu minh đều rất rõ là CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO- CHIẾU MINH TAM THANH VÔ VI là Cơ Tuyển Độ theo Sắc Chiếu Quy Nguyên các Linh căn của Thượng Đế.

Thầy không giao Chánh Pháp cho tay phàm. Linh căn tìm đến trước Thầy tự nguyện cầu Thầy lãnh Sắc Chiếu Quy Nguyên.

Vậy chính Đức Thượng Đế ban Sắc Chiếu cho từng Linh căn.

Linh căn phải qua quá trình tu luyện như Đức NGÔ-MINH-CHIÊU. Đến khi viên mãn, Đức Thượng Đế hạ Chiếu triệu, từng Linh căn mới được phép

xuất thế gian, vượt Tam Thiên, nhập Phật Quốc. Điều hệ trọng này tín đồ Chiếu Minh ai cũng rõ, nhưng nhớ làm đúng theo thì

lắm người không thiết nhớ và cố làm sai đi. Hiện nay cái quên cố tình, điều sai cố ý này ở Chiếu Minh rất phổ biến !

Tại sao Thầy chỉ Tuyển Độ Nguyên Căn mà không độ Hóa nhân ?

Xin xem lại Ngọc Lộ Kim Bàn. Ngày 15/2 Thầy đưa xuống Địa cầu 68 này 100 ức Nguyên căn.

Mục đích để Nguyên nhân có thân đủ Ngũ Hành để tu thành Phật trở về. Vì Nguyên căn là Thần mà Ngũ Hành là Khí.

Chơn Thần là nguyên bản của Trời vốn đầy đủ gốc nguồn nguyên cội thuộc Trời, chỉ thiếu cái thân Tứ Đại để tu thành Phật.

Dương Thần- Khí tách ra, lúc trở về rất hợp thể, không có trược chất.

Page 59: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

59

Nguyên căn là con trực sanh của Tạo Hóa lần thứ nhất. Nếu Trời là Ngôi Một thì Nguyên căn là Ngôi Hai, khi xuống trần là Thần Quang, khi thành Phật trở về có Đạo danh Phật thể.

Sắc Quy Nguyên Trời ban, Nguyên căn tự tìm đến quỳ trước Đại Từ Phụ mà lãnh Sắc Quy Nguyên và chính Đại Từ Phụ trực tiếp thâu truyền (không nên lầm là Đức Ngô tuyển độ) . Thế rồi Nguyên chưởng chính thức tu luyện theo dấu chân của Đức NGÔ-MINH-CHIÊU như khuôn rập, không được sai khác. Đường tu luyện gian nan, gặp khảo đảo phải Tâm kiên định. Đạo càng cao, theo lối xưa, chốn cũ bỗng như lại hiếu kính Đất Trời mà hối hả bươn về, Tâm bất thối chuyển.

Quy nguyên song song với Nguyên căn có các Vị Phật Tiên vì thiên trách lâm trần, nay cũng tu luyện với Nguyên căn và xem như đồng hành.

2- Đơn Thơ Chiếu Triệu:

Cuối quá trình tu luyện của một Nguyên căn : - Nếu không vi phạm Thiên Qui, trong lúc tu, tròn Thệ Nguyện. - Tu theo Pháp của Đức NGÔ-MINH-CHIÊU đã từng tu. - Tánh Đức cũng y như của Đức Ngô. - Không chế tác, cải sửa, Đạo Pháp vẫn sao y như trước và Pháp luân vẫn

Một. Thì Đại Từ Phụ sẽ có Đơn Thơ Chiếu Triệu về Nguyên. Ta đã biết Càn Khôn tuy rộng lớn nhưng cổng Trời có xuất nhập theo Thiên

Luật. Tuy rằng Thiên cơ đang qui trình Hoàn Đạo nhưng phải có Chiếu Triệu mới xuất Địa cầu. Chiếu Triệu đó như giúp giúp Nguyên căn thêm cánh để bay qua Tam Giới, nhập Tam Thanh, xuất ngoại Càn Khôn mà về lại cội nguồn bản thể mà hợp nhất. Thật là chỗ xưa nay được về lại. Hơn thế nữa, công năng tu luyện đã kết tụ xác lập Thiên vị và Quốc độ.

Nếu lúc còn tại thế gian, dầu cho có công sức tu luyện Đắc Đạo nhưng phạm Thiên Qui như :

- Không theo đúng Cơ Tuyển Độ, tự định cải canh, chế tác làm sai chơn Truyền, độ hóa nhân … Không theo y khuôn của Đức NGÔ-MINH-CHIÊU truyền lại …Người tín đồ chế tác này ngày cùng không có Đơn Thơ Chiếu Triệu để trở về, chỉ biết núp lại Địa cầu. Mà Địa cầu thì gần đến cơ tiêu diệt, ăn năn đã trễ.

- Còn Hóa nhân về đâu khi các nơi không nhận họ? - Ta xem trong Tây Du Ký, Tề Thiên độ một con khỉ trong Động. Nó tu hành y

như Tề Thiên. Nó định hại Tam Tạng rồi lập thành Tam Tạng khác mà thỉnh Kinh. Khỉ giả đó cũng giỏi không khác Tề Thiên. Vậy mà cõi Phật không chịu nhận Tề Thiên hóa căn … Tề Thiên phải đập chết khỉ giả đó !

- Như vậy, làm sai Chơn Truyền là tự hại chính mình và cho kẻ mà mình tự độ. - Người muốn tu Chiếu Minh nên tìm hiểu rõ điều này mà coi chừng gặp các vị

thích canh cải này mà uổng một kiếp tu hành.

Page 60: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

60

3- Quốc Độ :

- Đại Từ Phụ ban Quốc độ cho các Vị Giáo Chủ lớn ở các cõi của Quả Càn Khôn. Quốc độ là một Hành tinh tương ứng với Đạo Pháp của Thánh chúng cư trú và cũng dựa trên thanh trược Âm-Dương làm cơ bản.

- Quốc độ Chiếu Minh là Đại Từ Phụ ban cho Đức NGÔ-MINH-CHIÊU ở Vô Cực Tây Thiên.

- Tất cả chúng sanh được Đức Ngô đưa về an trụ ở Quốc độ này. Trong Quốc độ chia ra làm nhiều cấp theo Đạo quả, đồng thời cũng có thể chia ra các lãnh thổ cho Nhà Đàn.

Vậy muốn được Quốc độ của Vị Giáo Chủ phải được Thầy công nhận. Muốn được là công dân của Quốc độ Chiếu Minh phải có Đơn Thơ Chiếu Triệu.

Chỉ ra khỏi Quốc độ khi gặp các trường hợp : + Thăng lên các cõi cao hơn. + Xuống để độ sanh các cõi trong Tam Giới. + Phạm Thiên qui phải đọa trần. - Quốc độ là thế giới vĩnh sanh, vĩnh hằng, tuổi thọ vô cùng, phước lộc vô lượng. - Khi mới Lập Giáo, Đức Đại Từ Phụ dạy rõ : « Thầy ở trên đỉnh núi. Nếu con chạy thẳng từ chân núi lên đỉnh thì con gặp

Thầy nhanh nhất, sốm nhất. (Nếu tu theo Đức Ngô Minh Chiêu là đi thẳng, chạy thẳng từ chân núi lên đỉnh.) Nếu con chạy lòng vòng quanh núi thì biết chứng nào mới tới đỉnh (Chạy theo

các nấc cao dần là Cơ Phổ Hóa. » Hôm nay trong Cơ Tuyển Độ rất nhiều hệ cách tân cũng dựa vào Hai Đấng Đại

Từ Phụ và Đức Ngô mà dẫn dắt rất nhiều chúng sanh không qua hình thức Tuyển Độ (thay vào từ Tận Độ).

Con đường Đại Đạo đã khai thông, nhiều ngã chạy vòng khiến cho Nguyên căn không tìm ra được Chánh Đạo để chạy thẳng về Thầy !

- Từ Thượng Cổ, hễ Đạo khai thì Tà khởi. Chánh tà lẫn lộn, đan xen nhau theo nguyên tắc Nhị Nguyên. - Hôm nay chính Tạo Hóa giáng khai Chánh Pháp. Khi Đức Ngô còn tại thế thì

sự cách tân đã có kẻ làm rồi. Âu cũng từ trung hòa Tạo Hóa. Thương thay Nguyên căn lầm bước ! Ta nguyện rằng cả thảy Nguyên căn đều ở trong Chánh Pháp mà cấp cấp hườn

nguyên.

Page 61: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

CHƯƠNG THỨ SÁU : CÀN KHÔN VÕ TRỤ

I- LỰC CỦA TRỤC THÁI CỰC- (Bài 26) HAI LỰC KHÁC CHIỀU SONG HÀNH

Cách nay vài năm dư luận cho rằng một Dĩa bay ngoài Trái Đất đi với vận tốc rất

cao đáp xuống vùng đầy cát bụi trên lãnh thổ Liên Xô mà không hề thấy bụi đất tung lên. Lúc nó đi cũng vậy. Và liên tiếp nhiều nhận định được đưa ra :

Một lực đẩy tới bằng một lực đẩy lui thì vật thể ở giữa đứng yên.

Hai lực trái chiều nhau, mà lực đồng nhau cùng tác động lên một điểm tại cùng

một thời điểm thì điểm đó đứng yên. Do vậy mà việc Dĩa bay đáp xuống không bốc cát bụi là không thể thực hiện.

Ở đây vấn đề là Trục Thái Cực xoay tròn 360 o có sự hiện hữu song hành của hai lực :

.180o phân nửa vòng xoáy lực vào.

.180o phân nửa vòng xoáy lực ném ra.

- Nếu hút vào, hút mãi không rời, không dứt là vì hút vô bao nhiêu thì bị lực khí thải ra bấy nhiêu, vô tình bên hút, bên thải cứ luân phiên thành tuần hoàn bất tận.

- Nếu lực hút vào không có lực thải ra, vòng tròn 360 o hút vào đến lúc nào đó, khí Tiên Thiên bị dồn nén lại thành cây cột Trời cao 10 muôn 8 ngàn dặm và đường kín cột cũng 10 muôn 8 ngàn dặm thì lực hút không hút nữa và dừng lại.

- Lực thải ra song hành với lực vào. Do thải ra khí Tiên Thiên ly tâm đi vòng quanh xa trục xoáy tạo ra từng lớp Thiên-Hà, Thái Dương Hệ và Hành-tinh quanh Trục và cũng chính lực thải ra khiến lực hút vào phải lập lại, cuối cùng thành tuần hoàn. Bởi không đủ nhiên liệu thải ra nên ống Không càng lúc càng rộng lớn đến không tưởng. Ống Không đó chính là Trục Thái Cực.

Ở đây hai lực đồng nhau, nghịch chiều nhau, đồng hành mà thực hiện được (xảy ra được). Vì xảy ra trong môi trường Chân Không, lực vào hay lực ra không có một chút cơ học nào đối với Hư Không. Bản thể của Hư Không là vô sanh, vô nhất vật của Chân Không, chưa hề có niệm “tới hay lùi” ở không gian đa chiều.

- Khi lập trình một lá số Tử vi, ta biết trước kết quả lập trình, theo vậy, khi hình thành lập trình lá số Tử vi là ta đã lập trình kết quả lá số đó từng giai đoạn, từng thời điểm và hình thành phương án ngược lại lá số vẫn được dễ dàng vì sao : Trí não ở thể vô hình hữu tướng.

Vậy hai lực ngược nhau như Trục Thái Cực vẫn song hành và chính vậy mà giữ được ổn định tính bền vững công trình Đại Tạo vũ trụ của Đức Thượng Đế.

Page 62: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

62

Thật vậy, nếu tròn 360 o mà chỉ có một lực ống thì không làm đặng cái chi mà lực ấy sớm tắt.

Do lực hút vào, lực đối lại đẩy ra chiều khác nhau thành ra thêm trớn cho lực kia lại tiếp tục hút vào thành tuần hoàn và giữ vững được Quả Càn Khôn nằm yên trong cấu trúc cân bằng, các thông số hấp lực giữa Ngũ Hành với nhau luôn ổn định.

Đây là một nguyên lý rất vi diệu từ chân không mà ra, có Cổ Thánh gọi là “ Diệu hữu Chơn Như”.

Tiên Thiên Hư Vô đầy hỗn độn đầy ấp trong không gian bị hút vào Trục tạo thành một cơ đại lốc. Lực ném ra tạo ra tầng lớp thấp, cao, trong, ngoài như những tấm lụa dài vô hạn ra xa Trục mà vẫn quay quanh Trục, tạo ra các dãy Thiên-Hà. Trong mỗi dãy Thiên-Hà có vô số Hành-tinh và Thái Dương Hệ.

Khi Quả Càn Khôn đã viên thành thì lực hút vào không còn Tiên Thiên Khí để hút thì chỉ hút Chơn Khí phát ra (thoát ra) từ các Thiên-Hà, và sự tuần hoàn của Thiên Hà quanh Trục Thái Cực với lực hướng ra (ly tâm) tạo cho Trục Thái Cực một ống thông khí rổng mà rộng đến không cùng, thanh tịnh đến chí tịnh.

Là đường thoát khí của 3 cõi, Khí động giao thoa nhau tạo thành lửa Hư Vô sáng quang minh trong lòng Trục Thái Cực.

Chơn Khí kết tỏa nghìn giống, muôn vẻ, Có-Không lẫn lộn, Có mà chẳng Có, chẳng Có mà Có.

Tuy hai lực khác chiều nhưng hành trình cho ra một kết quả chung là Quả Càn Khôn đã viên thành. Đó chính là Thập tự Tam Thanh mà ta đã gọi là Trục Thái Cực.

Hiện nay Quả Càn Khôn treo ở Bát Quái Đài tại Tịnh Thất Tòa Thánh Cao Đài

chưa đúng vì khó thực hiện. Có thể thiết kế Quả Càn Khôn gồm nhiều múi ráp lại, mỗi múi khi ráp lại xong

thì trong có Trục giữa và hệ thống Hành-tinh, Mặt Tời, Mặt Trăng, Thiên-Hà có đủ. Chỉ có vậy mới có thể thực hiện được và chắc cứng không đỗ gãy (chất liệu bằng mủ trong hoặc thủy tinh).

Page 63: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

LỰC CỦA TRỤC THÁI CỰC

Page 64: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

64

II- QUẢ CÀN KHÔN- CÁI DỤNG NGŨ HÀNH- THẬP THIÊN CAN (Bài 27)

Khảm sanh dụng Nhâm Quý làm Thiên CaN

Ly … Bính Đinh …

Chấn … Giáp Ất …

Đoài … Canh Tân …

TW Thổ … Mậu Kỷ …

Thập Thiên Can gồm : - 5 Thiên Can Dương : Giáp – Bính – Mậu – Canh – Tân

- 5 Thiên Can Âm : Ất – Đinh – Kỷ - Tân – Quý

Page 65: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

65

Còn Địa cầu 68 là một Hành tinh nằm trong Quả Càn Khôn tại Nam Thiện Bộ Châu. Địa cầu được chia làm 12 múi từ Tý tới Hợi, đối như sau :

- Dần đối Thân - Mẹo đối Dậu - Tỵ đối Hợi - Thìn đối Tuất - Tý đối Ngọ - Sửu đối Mùi

Sự chuyển vận của Quả Càn Khôn nên có sự giao hiệp Thiên Can và Địa chi mà định đặt năm, tháng, ngày, giờ…

Thượng Giới : 12 Chơn Khí 1/2 Trung Giới : 24 Chơn Khí

36 … 1/2

Hạ Giới : 72

Thiên Can 10 1/2 Địa chi 12

Page 66: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

III- 108 NGUYÊN TỐ TRONG VÕ TRỤ (Bài 28)

A- SỰ PHÂN BỐ CỦA 108 NGUYÊN TỐ

Ở con người số nguyên tố này có thể thêm vào hoặc lấy bớt ra. Nhưng ở chỗ nguyên gốc nó là lý chuẩn.

- Con số 108 trước tiên ta nói Tây Du Ký hay nhắc đến. - Trong tử vi cũng cố định ở 108 Sao cho một Lá Số gồm 12 cung.

108 Sao gồm 12 Chính tinh, 24 Trung tinh, 72 Địa Sát tinh (cộng 108) phân bố trên 12 cung từ Tý đến Hợi.

- Ở Đại Đạo, Thầy nói : “Số 12 là số riêng của Thầy…” . Sao Thầy chọn 108 Vị Đắc Đạo mà đi giáo hóa Ngũ Châu ? - Vòng chuỗi cũng chỉ dùng 108 hột, cho một Châu Thiên luyện Đạo (108=18x6) - Tạo cõi Trời Đại Niết Bàn Tam Thanh, Đức Linh Bảo Thiên Tôn vận hành 108

nguyên tố để sanh hóa ra Càn Khôn Đại Đạo theo lập trình đã được định trước… Ta cũng vốn biết 108 nguyên tố này ở tồn tại dưới nhiều dạng như : Thể khí, thể

lỏng, đậm đặc hoặc cứng rắn. Trong Đại Đạo, 108 nguyên tố này phân bố ra làm 5 nhóm, đó là Ngũ Hành. Từ 5 cơ quan này mà phát động Thiên cơ, liền giao nhau đa phương thì sanh hóa

trùng trùng không thể kể hết. Cho nên vạn loại từ đây mà sanh, cũng từ đây mà diệt… 108 nguyên tố này nằm yên trong Vô Cực dưới dạng Khí Tiên Thiên hỗn độn lúc

nguyên sơ. Ta thử hỏi rằng 108 nguyên tố này do đâu mà có, mà sanh ra? Nếu 108 nguyên tố này có bổn nguyên trước sau y vậy thì mỗi đơn vị nguyên tố

được khai sinh từ đâu ? Trong chỗ Hư Không võ trụ, nơi nào là cái kho chứa từng đơn vị nguyên tố ? Khí Tiên Thiên có phải là lúc 108 cái kho đã xuất hàng và phối trộn lại thành

một Khí Tiên Thiên đó chăng ? Khi sanh ra Ngôi Thái Cực, vậy chính 108 nguyên tố này phối sinh.

Thật vậy, cho nên trên Hành tinh này mỗi sự sống đều có 108 nguyên tố cơ bản

này trong thân thể. Thầy dạy : “Số 12 là số riêng của Thầy.”

Tại cõi Tối Đại Niết Bàn của Thầy, Điện Linh Tiêu là tiêu điểm của Quả Càn Khôn như là Thiên Môn Đảnh, Bách Hội ở bộ đầu con người vậy.

Tất cả mọi nguồn lạch ngõ ngách thông thiên đều có một điểm chung là Điện Linh Tiêu.

Trục Thái Cực quay vận tốc cao thì khí cực thanh bị dồn nén, thoát tung mạnh lên thành một khí Bạch Quang kết tụ trên Đầu Trục, tinh hoa của khí là Bạch Ngọc Kinh đó. Linh Tiêu Điện là trung tâm của Bạch Ngọc Kinh.

+Từ cõi siêu Tam Giới, Thầy đã làm Chủ 12 Khí rồi. Có nghĩa tại đây đã có Bát Quái Đồ Thiên rồi.

Page 67: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

67

+Khi xuống Trung Giới thì 12 Chơn Khí bị bọc thêm một lớp trược nữa nên : 12 x 2 = 24 khí tại Trung Giới.

+Từ Trung Giới xuống Hạ Giới, 24 khí nhập trược gấp 3 lần nên: 24 x 3 = 72 Chơn khí.

Nói khác hơn, nếu từ cõi của Thầy đến Trung Giới (12 + 24 = 36) rồi xuống tiếp Hạ Giới thì nhiễm trược gấp 2 lần ( 36 x 2 = 72 )

Đại Đạo của Thầy : 12 + 24 + 72 = 108 (cũng 108 !)

108 nguyên tố có cơ quan phía trên sanh ra thì thật ra ở ngoài sự hiểu biết của ta, tri kiến lọt vào vòng lẩn quẩn.

Nếu gọi Tiên Thiên Khí thì chưa chính xác mà nên dùng là 108 nguyên tố thời kỳ hỗn độn.

Trong 108 nguyên tố phân bố làm 4 Châu với tính năng mỗi Châu có đặc thù riêng, hoàn toàn không giống nhau :

- Bắc Hắc Thủy. - Nam Xích Hỏa. - Tây Bạch Kim. - Đông Thanh Mộc. - Trung tâm Huỳnh Thổ. Với khối lượng khổng lồ, mỗi Châu là một kho nguyên tố đã được phối trộn theo

một qui trình lập sẵn. Cho nên Quả Càn Khôn là một Đại công trường của Tạo Hóa, thi công hoàn toàn

điện hóa tự động. Công trường Trời Đất này không giờ phút nào ngừng nghỉ. Ở công trường này

không có khái niệm không gian và thời gian.

Lửa Trời ngùn ngụt chốn không gian, Sấm chớp tủa tua đến bạc ngàn. Tạo dựng Đất Trời xem chẳng nhỏ, Hình thành võ trụ có trần gian.

Trần gian tạm lập để con tu, Thành Phật, thành Tiên thoát ám mù. Chờ đợi thu ngàn sao chẳng thấy ? Lâm trần dìu dẫn kíp vào tu!

Tu cho Thần Khí hiệp vo tròn, Đạp phá tử sanh vững chí con. Thoát kiếp trần hồng về võ trụ, Càn Khôn quả ấy sẽ vo tròn !

Page 68: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

68

Thầy Đại Tạo ra công trình Quả Càn Khôn, chất liệu tạo tác bằng 108 nguyên tố

nên công trình Đại Đạo này lúc đang sanh cũng chính là lúc đang diệt. Trong lòng công trình Đại Đạo này không lúc nào mà không có tiếng nổ, sấm chớp, trốt, cháy …

Không có chuyện gì mà không có xảy ra ở đại công trình này. Ngoài sức nhân loại, con người chỉ biết rằng công trình Đại Tạo Quả Càn Khôn

của Thầy nó có kích thước : - Từ cao : Sao Bắc Đẩu, xuống thấp : Sao Nam Tào. - Bề ngang nở rộng đến vô cùng. Nếu có tính thì dùng ánh sáng mà đo. Một năm ánh sáng đi được 9.460.000.000.000 = 946 10 kilomet (9 triệu 4 trăm 60

ngàn triệu cây số ) Công trình Đại Đạo của Thầy được xây dựng trên mặt bằng : Sâu vô cùng, rộng

vô biên, không ngừng mở rộng. Tòa Đại Đạo này được Thầy thiết kế tự động hóa tất cả các hạn mục thi công, tự

động lúc khai thác và sử dụng.

Page 69: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

69

Page 70: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

70

Tòa Đại Đạo của Thầy được xây dựng bằng kỹ thuật siêu việt và liên tục cấp tiến, cải tạo, nâng cấp : hủy diệt và tái tạo đều tự động hóa.

Sự hủy diệt và tái tạo là hệ tuần hoàn trong công trình Đại Đạo của Thầy. Có chỗ dường như vĩnh hằng, có nơi nháy mắt đã đổi dời toàn diện rộng. Để phần nào chúng sanh hình dung được công trình muôn thuở của Thầy, ta lấy

việc như sau : Là Hệ Mặt Trời của ta gồm Mặt Trời và 9 Hành tinh. Quay quanh Hệ Mặt Trời này là một phần tử của một dãy Thiên Hà mà nó lớn

đến gần 100 Mặt Trời Thái Dương Hệ với hơn 900 triệu Hành tinh, trong đó có một Mặt Trời trung tâm Thiên Hà rất lớn.

- Mặt Trời chúng ta chỉ là một Ngôi sao nhỏ đến đổi có Mặt Trời lớn hơn nó gần 10 triệu lần !

- Trái Đất của chúng ta rất bé, không là gì so với các Hành tinh khác. Nó chỉ có khối lượng trung bình thôi và có một Mặt Trăng. Trong khi Trái Đất

khác có đến cả 100 Vệ tinh. - Toàn Thái Dương Hệ của chúng ta rộng như vậy mà nếu đem Mặt Trời và 9

Hành tinh này để vào lòng một Ngôi Sao nọ, vẫn chưa choáng hết chỗ mặt diện của Sao đó.

Công trình muôn thuở của Thầy có đến nhiều tỷ dãy Thiên Hà như vậy, mà hiện tại vẫn cứ lập thêm ra, công trường lúc nào cũng không ngừng mở rộng.

Tất cả đều tự động hóa bằng hệ số toán học siêu tối ưu ngoài sức tưởng tượng và hiểu biết của con người.

Người ta dùng chữ Vô Vi huyền diệu để nói đến chỗ “khó hiểu” này ! Nói một cách tổng quát, Quả Càn Khôn là một Đại công trình của Thầy, do Thầy

thiết kế và vận hành theo một biểu đồ tự động Vô Vi, đó là Bát Quái Đồ Thiên. Công trình đã hoàn thành và Thầy đang sử dụng khai thác để trưởng dưỡng Cơ

Sanh hóa của Thầy.

B- VÌ SAO GỌI ĐẠI ĐẠO CỦA THẦY LÀ CÔNG TRÌNH MUÔN THUỞ ?

Vì Quả Càn Khôn lớn quá, hấp lực dần bị bẻ gãy do ly tâm có chiều hướng hủy

diệt nên Thầy cho liên tục tiêu hủy nhiều hạn mục để tái tạo lại các hạn mục khác cho ổn định cân bằng hấp lực chung của Toàn khối.

Cho nên trong Quả Càn Khôn, ở đó, nhất là Nam Thiện và một phần ...tiếp giáp của hai Châu Tây và Đông (Tây Ngưu Hóa Châu và Đông Thắng Thần Châu), luôn có sự phá hủy và thay mới (từ các vật liệu cũ), được liên tục xảy ra.

Thật là chỗ nhiều sanh lắm diệt vậy! Bắc Cưu Lưu Châu và hai phần tiếp giáp phía dưới Đông Thắng Thần Châu và

Tây Ngưu Hóa Châu rất ít biến dịch vì các Hành tinh chưa có sử dụng còn quá nhiều (Chờ các Vị Giáo Chủ dẫn đệ tử về rồi Thầy sẽ ban cho Quốc độ mà chủ trì.)

Page 71: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

71

Phía ngoài Quả Càn Khôn còn vô số Khí Tiên Thiên vẫn ở thời kỳ hỗn độn nên các Thiên Hà. Ngân Hà, Hệ Mặt Trời...,

Cả đến Hành tinh có thể lớn thêm và cuốn lấy thêm chất liệu, nhưng cũng có thể hút lấy khí cháy để tạo áp suất nổ mà hủy diệt Hành tinh.

Các Thiên Hà phía ngoài Quả Càn Khôn có nguy cơ đụng chạm nhau vì cuốn lấy quá nhiều khí hỗn độn mà làm mất cân bằng của Hệ thống.

Một Thái Dương Hệ hay Thiên Hà gặp đám Tinh vân (khí hỗn độn) chẳng khác nào một thành phố ở trần gian gặp bão cát vậy.

Rồi điều gì sẽ xảy ra khi mà nguồn khí hỗn độn này nhiều đến không cạn

kiệt ? Bát Quái Đồ Thiên là nguyên lý Đại Đạo Trời Đất và Đất Trời vẫn còn mãi rộng

mở không có điểm dừng lại. Cơ Sanh hóa đi song song với Cơ Đại Tạo, có chức năng khai thác, sử dụng để ta

tập tiến hóa. Xin nhắc lại, Thầy dùng hệ thống tự động Âm Dương và Trung Hòa nữa mà

sáng tạo Càn Khôn. Đạo Trung Hòa (Trung Âm mà hữu Dương- Trung Dương mà hữu Âm) . Khi mà Chơn Không chẳng còn khí hỗn độn, tức công trình của Thầy bị cạn

nguồn nguyên liệu (hết Âm), tức là công trình Đại Tạo mới có dừng lại (Quả Càn Khôn không to thêm nữa).

Quả Càn Khôn chí có phương án phân hủy và tái sử dụng. Có nghĩa là có nhiều dãy Thiên Hà, Hệ Mặt Trời, Hành tinh được thành lập do

chất liệu tái sử dụng. Tức nhiên là Thiên Hà tái chế này mang nhiều Âm Khí hơn, vì Dương Khí bị

thoát ra qua nhiều lần chấn động, nó có khả năng trầm sâu xuống đáy quả Càn Khôn. Nó gần như chất phế thải của Nam Thiện Bộ Châu.

Quả Càn Khôn quay lăn qua nơi nào ở khoảng không gian đó không còn cát bụi, thật sự là Chân không rổng tuếch.

Nói cách khác, công trường Đại Tạo của Thầy nếu không gian hết nguyên liệu (là khí hỗn độn) thì toàn công trình dịch chuyển dần đi nơi khác .

C- HÀNH TINH NỔ !

Một Hành tinh bị nổ là một Lạc Thư bị diệt. Có rất nhiều lý do để dẫn đến sự nổ một Hành tinh :

- Hành tinh cuộn nhiều khí cháy vào. - Hành tinh mất cân bằng hấp lực. - Sự va chạm nhau giữa hai hoặc nhiều Hành tinh.

Hễ nổ thì Hành tinh bị xóa mất, vật chất của nó dần được tái tạo lại. Những Hành tinh lớn dễ dẫn đến nổ, nhất là đạt độ quay lớn. Hấp lực đột xuất tăng trọng, khối Hành tinh bị dồn vào Tâm gây nổ lớn.

Page 72: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

72

Địa cầu của chúng ta cũng có hiện tượng nổ vì mất cân bằng hấp lực. Địa cầu có chúng sanh đang sinh sống nên được Đức Thượng Đế cứu khổ, nên

Đại khổ nạn của nhân loại được cứu mà còn đến hôm nay.

D- NGĂN NỔ HÀNH TINH

Như trên đã nói : Đại Đạo của Thầy từ xây dựng đến sử dụng và sửa chữa, tái tạo đều tự động hóa

toàn công trường. Nên Hành tinh sắp hư hay nổ, nếu không có Cơ Sanh hóa thì Hành tinh đó sẽ cho

nổ. Nếu có Cơ Sanh hóa thì được lập trình cứu nổ. Ta duy chỉ biết là cứu một Hành tinh bị bất kỳ sự cố nào thì chỉ có Đức Thượng

đế mới đủ khả năng đổi dời cơ cuộc tích cực mà thôi. Thượng Đế ở trên làm Chủ Âm-Dương. Thượng Đế ở giữa Trung Hòa Âm-Dương. Với tính năng này Thầy dùng Bát Quái Đồ Thiên là nguyên lý lập thành võ trụ,

khởi niệm Âm Dương vận hành bình ổn tuần hoàn cho Hành tinh. Nếu không phải là Thượng Đế thì Âm Dương sẽ nổ ngay. Địa cầu ta năm 1977 đã được Thượng Đế bình ổn tuần hoàn và ngăn không

cho nổ, đồng thời đưa Địa cầu từ vị trí 68 vào vị trí 67. Nhân loại không hề hay biết đến sự cứu khổ toàn cầu của Thầy vừa qua. Từ đây nếu trên Hành tinh sắp hoại mà có nhơn sanh tu luyện Đạo Pháp thì thêm

năng lượng cho Bát Quái Đồ Thiên của Thầy tiếp tục bảo vệ sự sống vậy. Nếu không thấu hiểu thì chúng sanh chớ coi đây là huyễn hoặc. Việc Thượng Đế có Toàn Năng bảo vệ Quả Càn Khôn và từng đơn vị cá thể

là Hành tinh. Đó là sự thật, vì Thầy là Chủ của Âm Dương. Trong lập trình Đại Tạo Thầy dụng Âm-Dương để tự động hóa mọi công đoạn

hình thành Quả Càn Khôn. Tất cả mọi khâu, tất cả mọi hạn mục đều do chính Thầy làm Chủ cho nên không

có việc gì trong Trời Đất mà ngoài khả năng của Thầy cả. Điều Thầy muốn là công trình Đại Tạo Càn Khôn ở mỗi Châu, nhất là Nam

Thiện Bộ Châu. Phải biết rằng Cơ Sanh hóa Đại Đạo có CHA chung là THẦY nên phải dìu

dẫn nhau, chung lưng bảo vệ nhau và sống hợp với Đạo Trời, để cầu nối THIÊN-ĐỊA-NHÂN không bị gián đoạn.

Page 73: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

IV- HÀ ĐỒ HÀNH TINH 67 NAM VN- BA TRI (Bài 29)

A- THIÊN NHẤT SANH THỦY

Tại Địa cầu 68 của chúng sanh, địa điểm cao nhất của Hành tinh, được coi như nóc nhà thế giới. Đó là dãy Hymalaya ở Ấn Độ. Từ đây là đầu nguồn của các con sông lớn, trong đó có sông Cửu Long chảy qua nhiều Quốc gia và nguồn nước thoát ra biển Đông bằng 9 cửa.

Sông Cửu Long là sông lớn nhất ở VN. Nó dẫn nguồn Chơn Thủy từ chỗ cao về đến đồng bằng Nam Bộ. Chơn Thủy lưu hành trên sông Tiền-Hậu Giang, là nguồn sống cho Nam Bộ. Ngoài ra Chơn Thủy còn thẩm thấu trong lòng đất và âm thầm thẩm thấu, cũng tiến từ cao về thấp. Nguồn Chơn Thủy ngầm tạo thành mạch ngầm rồi một lúc nào đó Chơn Thủy hội tụ ở một địa phương và xuất lộ nguồn Chơn Thủy mang đầy khoáng chất mà sự sống rất cần.

Nguồn Chơn Thủy là tinh hoa của Trời và Đất xuất lộ tại địa phương đó. Nói chính xác, đó là Thiên Nhất sanh Thủy (cung Khảm đó ) . Khi nó xuất lộ là cung Khảm vậy. Cung đối lại là cung Ly. Ở đó chính là Hà Đồ

của một địa phương vậy.

B- TÒA THÁNH VÔ VI (ĐÔNG CUNG BẠCH LONG)

Tại Huyện Ba Tri (Tỉnh Bến Tre) thì có một mạch Chơn Thủy xuất lộ, lại ứng với việc lập Hội Thánh Vô Vi, đồng thời ứng với Diệu Khuyết Đàn của Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh.

Nay nói về Dịch Lý Đại Đạo là nói đến nền Đạo Pháp của Thầy. Trong nền Đạo Pháp có cả một lập trình Tạo Hóa là Hội Thánh Vô Vi tại TT

Đông cung Bạch Long đã được Thầy qui hoạch và đặt nền móng tiền đề cho công trình quy nguyên Linh căn toàn cầu mai hậu (kỷ nguyên Đạo Đức ngày nay).

Nên nhớ lại, Thầy lập 12 Chi phái Cao Đài. Chi Chiếu Minh lo dẫn độ Nguyên căn trở về. Còn Hội Thánh Tiên Thiên có một hệ thống 72 Thánh Tịnh, tương ứng Thất Thập Nhị Khí trong hệ thống cung Ly của Tiên Thiên Hà Đồ mà chính xác là của Xích Lão nên Tiên Thiên Hội Thánh nằm trong hệ thống Chơn Khí của Nam Thiện Bộ Châu nên Châu này có gì thì Hội Thánh Tiên Thiên có nấy.

Hội Thánh Tiên Thiên là Cơ Phổ Hóa đi vào chúng sanh nên Lạc Thư ra 72 Khí hóa sinh.

Trước Cơ Quy Nguyên của Thầy, Hội Thánh Tiên Thiên có đủ hình thể nên ngược chiều trở Đạo.

Nơi mà Thiên-Địa-Nhân đang được Thiên cơ vận hành hườn nguyên mà Thầy đã đặt nền móng cho Tiên Thiên. Đó là Thánh Tịnh Đông Cung Bạch Long.

Công trình này đang ở kỷ nguyên sơ khai tiến về chuẩn. Thầy đã thành lập để quy nguyên, chuyển Hội Thánh Tiên Thiên Vô Vi dưới tên

là Hội Thánh Vô Vi.

Page 74: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

74

C- BA- TRI ĐẠO XUẤT Ư ĐÔNG.

Tại sao Hội Thánh Vô vi Thầy chọn ở Đất Ba Tri ?

- Ba Tri xuất lộ Dương Khí (Thiên Nhất sanh Thủy ; Hà Đồ hiện ra).

- Chính hiệu ứng của Khảm cung nên phát sinh Đàn tu Vô vi là Diệu Khuyết Đàn. Và hôm nay nó phát tán làm 2 Đàn với số người tu càng lúc đông thêm.

- Đông Cung Bạch Long trong Ngũ Hành của Phái Tiên Thiên thì TT Đông Cung thuộc Hành Mộc, Chánh Đông.

- Mà Khảm Chơn Thủy tương sanh Chơn Mộc (Chánh Đông), cung Chấn . Chỗ tương sanh là cơ thạnh phát Cơ Pháp sau này đó ( Thủy vượng …thì Mộc

tướng…) Thật vậy, Thiên định xưa nay « Đạo xuất ư Đông ». Ở Chơn Nhân thì Đạo xuất Mẹo thời. Ở Địa thì Đạo xuất tại Chánh Đông. Nếu Hội Thánh Vô Vi Cơ Đại Thừa Chơn Pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi

mà xuất lộ, đó chính là đem Pháp hườn sanh mà đặc truyền cho Linh căn toàn cầu. Theo Sắc Chiếu của Thầy, theo công trình của Thầy là tại Ba Tri vậy. Đạo Pháp phát nơi nào (song song với Chơn Thủy tại Linh huyệt) thì địa phương

đó Đắc Nhất. Ôi ! Một thời đại Đạo Đức huy hoàng cho địa phương đó. Nhân loại coi đó là

Đất Tổ mười phương. (Ta viết đến đây, trí thấy trước vấn đề mà ngòi bút lia theo không kịp. Nếu mọi công dân Ba Tri đều biết và trân trọng thì Tam Tài, Thiên- Địa- Nhân

sớm kết thống về MỘT. Đạo Đức là năng lượng cho sự sống của Tiên Phật tại Ba Tri đó.)

Trong 12 Chi phái Cao Đài, Thầy lập Hội Thánh Tiên Thiên đầy đủ hình thể của Trời Đất mà các Chi phái khác không có.

Tiên Thiên 72 Thánh Tịnh là một Bát Quái Hậu Thiên đi vào Cơ Sanh hóa để rồi nay tìm đến Hội Thánh Vô Vi mà quy nguyên.

Trong Hội Thánh Tiên Thiên có đủ Ngũ Hành (Đông-Tây-Nam-Bắc). Đến lúc quy Ngũ tại Thánh Tịnh Ngũ Long Môn. Đó là giữ lấy lẽ : « Tam Ngũ quy gia ». (Đoan Dương tràng ngũ).

Page 75: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

75

Các Bậc Lãnh Đạo Hội Thánh Tiên Thiên không thấu triệt Chơn Lý của Thầy, hành sai Tông Chỉ, gây chia rẽ (không quy thống) ở trong nhơn quần, làm xoáy mòn Thiên cơ của Thầy nên Đạo không cứu được Đời.

Uổng thay ! Tiếc thay !

Tiền thân của Hội Thánh Vô Vi tại Đông Cung Bạch Long là Đàn Diệu Khuyết. Diệu Khuyết sanh Khuyết Linh Đàn và Diệu Linh Đàn. Ngày nay quy thống 3 Nhà lại MỘT là Diệu Khuyết Linh Đàn.

Khi mà 3 Nhà thật sự quy thống, đó là lúc Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Ba Tri Đắc Đạo.

Đạo đã có và mạnh rồi thì đến lúc Đạo xuất ư Đông : Độ Nguyên căn nhiều vô số kể.

(Vậy cho nên nếu quý vị nào cứ giữ phàm tâm tư kỷ, chấp kiến huyễn giả, không tùng theo Cơ Tạo của Thầy mà độ chúng, độ tha, làm trái lại Sắc Chiếu của Thầy và tư kỷ thì dù có tinh tấn tu luyện cũng không có Thầy hiệp Thần-Khí ở ngày cùng.

Chư Huynh khá nhớ mà liệu lấy. Tôi xin một điều, nếu lòng phàm của mình mà không dẹp được thì hãy tự lo riêng

cho mình đi, đừng để liên quan đến Đạo Thầy tại Ba Tri. Tại Huyện Bình Đại, Chơn Căn đắc Ngũ Thông nhiều. Có thể nói khai Ba Tri ở

Bình Đại đó.)

Chơn Thủy Cửu Long Giang trên mặt đất và ngầm trong lòng đất đều có hướng đến đồng bằng Nam Bộ, cho nên Chiếu Minh Tổ Đình cũng tại Cần Thơ.

Long Châu và Chơn Khí của Quốc gia này đã là Linh Khí thuộc vào kho

« dụng » của Giáo Chủ. Thầy Giáo Chủ dùng nó làm năng lượng hỗ trợ cho cơ Pháp Chiếu Minh. (Nguồn nước của Cửu Long Giang thuộc Thiên Hà Thủy, từ trên cao do mưa, do

băng mà có ra nước). Nước này do Thủy Khí mà có.

Tóm lại, tiền thân Hội Thánh Vô Vi tại Đông Cung Bạch Long là Diệu Khuyết đàn, sau đó là Diệu Linh, Khuyết Linh.

Ba Nhà thống nhất : « Diệu Khuyết Linh Đàn », chính là Cơ Pháp của Hội Thánh Vô Vi tại Đông Cung Ba Tri.

Dòng Cửu Long Giang không những tạo sanh khí dồi dào cho chúng sanh đồng bằng sông Cửu Long về Đạo Trời mà còn Tạo cho Địa cầu Quốc gia Chơn Khí quy thù Đắc Nhất nữa !

Page 76: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

76

Cửu Long Giang, nguồn Chơn Thủy đặc thù của Địa cầu là Dương Khí trong

cung Khôn biến thành Khảm .

Trong Lạc Thư, Địa cầu Cửu Long Giang là Khảm cung .

Chơn Dương của Trời (Càn ) hóa Dương Thủy tại Địa cầu. Nói cách ấy là Long Khí nên Đại Từ Phụ có : « Thời thừa Lục Long- Du hành bất tức ».

Còn Giáo Chủ có : « Thời thừa Cửu Long- Du hành Thiên Địa ».

Chơn Thủy Cửu Long ứng hiện rất rõ tại Đồng bằng Nam Bộ : - Đạo-Đời Đắc Nhất tại Mồ Kỷ này vậy. - Do đây mà « Bát Quái Đồ Thiên Mồ Kỷ » tại miền Hậu là đây.

- Ghi chú : Đông Cung Bạch Long có nghĩa thật là : Tại hướng Đông Chấn cung có nguồn

nước (Chơn Thủy) xuất lộ hướng từ hướng Tây Kim nên gọi là : ĐÔNG CUNG BẠCH LONG

Page 77: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

CHƯƠNG THỨ BẢY: HOÀN ĐẠO-VẠN THÙ QUY NHẤT BỔN

I- TẠO ĐOAN HOÀN THÀNH VÕ TRỤ (Bài 30)

Page 78: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

78

A- NGUỒN GỐC CỦA VÕ TRỤ

Từ hai thể Vô Vi : Bầu Vô Cực và Tiên Thiên Khí, trong tự nhiên đã kích tương nhau dần tạo thành chuyển động và sanh ra Ngôi Thái Cực.

Từ đó theo lực Đại Tạo của Thái Cực, Đại Đạo được khai sinh theo qui trình Chơn Lý của Thượng Đế.

Đây là một Đại công trình từ “Không” mà ra “Có”, tầm vóc quá lớn lao được hình thành từ một nguyên lý rất chặt chẽ.

Nguyên lý này Cổ nhân đã nhiều đời nối tiếp dùng văn tự, ký tự để diễn lập lại sự hình thành Quả Càn Khôn về phần Hữu Vi hình thể.

Nay muốn nói về phần “Không” của Đại Đạo thì cũng bắt nguồn từ phần “Có” mà đi ngược lại.

Đến phần trừu tượng hữu tướng đòi hỏi người xem Dịch học có những kiến thức cơ bản và Đức Tin mới may ra thâm nhập được ở phần “Không” Đại Đạo được.

Từ hai lực của Trục Thái Cực :

1-Lực hút vào :

Trục Thái Cực lúc khởi nguyên thì lực này hút lấy khí hỗn độn trong không gian. Đến thời điểm nơi ấy khí đã cô đặc thành Tinh cầu hết rồi, nên chúng có khi hút lấy cát thì Tinh cầu mất cân bằng, lệch thông số và rồi lực hút xay nát cả một Hành tinh và lực kia ném cát bụi ra võ trụ.

Khi võ trụ đã hoàn chỉnh thì lực này chỉ hút Chơn khí thoát ra từ khối Tinh cầu để chuyển hóa khí nhẹ này lên tầng cao hơn của Đại Đạo.

Lực hút vào này gọi là lực hoàn nguyên. Nó là Dương lực của Hà Đồ.

2-Lực ném ra :

Lực này đồng chiều mà khác hướng với lực hút vào, nói chính xác hơn lực hút vào đã đi chệch hướng thành ném ra.

Thời điểm võ trụ đã hoàn thành, lực ném ra vẫn là các luồng khí lực ném ra vạn thù còn gọi là Âm lực của Hà Đồ.

Chính do đây mà Chơn Khí của Trục Thái Cực dần vào thể Vô Vi tịnh là Chủ. Một Chơn Lý cố định : Hễ có hình vóc thì có hoại nếu không được chuyển hóa. Quả Càn Khôn có vóc hình hữu thể của Thượng Đế, tức là ta muốn nói đến lúc

hoại. Nhưng vì là của Trời nên Quả Càn Khôn sẽ được chuyển hóa đến giá trị cao hơn.

Từ lúc võ trụ thành lập đến nay đã trải qua lịch lãm thời gian nhưng chưa thấy Kinh thư nào nói về qui trình hườn Đạo của Quả Càn Khôn.

Riêng kỷ nguyên Thượng Đế hoát truyền Đại Đạo để cứu thế tại Địa cầu chúng sanh thì Đức Thượng Đế đã quyết định như sau :

Page 79: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

TẠO ĐOAN HOÀN THÀNH VÕ TRỤ

Page 80: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

80

THẬP TỰ TAM THANH là biểu tượng thu gọn của Quả Càn Khôn Đại Đạo

Page 81: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

81

- Quy nguyên Tam Giáo. - Sắc Chiếu Chiếu Minh quy nguyên Linh căn và đem Bửu Pháp xuống trần.

Đồng thời có vô số Chư Phật Tiên hạ phàm để hỗ trợ đa phương cho Nguyên căn hồi nguyên.

- Không phải như Vua phàm ra Sắc Chiếu trên giấy, trên lụa mà ở đây Thượng Đế phát niệm Đại Tạo thì Thiên cơ Âm-Dương liền chuyển vận cả máy Càn Khôn tùng theo, không một ai cản được.

Những kết quả quy nhất được ghi : - Thiên Đắc Nhất dĩ Thanh. - Địa Đắc Nhất dĩ ninh. - Quân Vương Đắc Nhất dĩ thiên hạ bình. - Nhơn Đắc Nhất dĩ Thành. Dầu Thiên, Địa, Quân Vương, Người, từ chỗ đa vạn thù mà về Nhất thì thật ra

đều trải qua cả một quá trình phấn đấu gian nan, muốn đạt thành phải có kế hoạch phấn đấu cụ thể.

+ Tại Bát Quái Đồ Thiên siêu Tam Giới có 4 cặp đối : Càn- Khôn ; Khảm- Ly; Chấn- Đoài; Cấn-Tốn và 12 Chơn Khí Hư Vô.

+ Tại Bát Quái Hà Đồ của Quả Càn Khôn có 4 cặp đối sau : Khảm-Ly; Chấn-Đoài; Càn-Tốn; Cấn-Khôn và có 24 Chơn Khí. Cộng 12 Khí Hư Vô cõi Thượng và 24 Khí Trung Giới là 36 Chơn Khí.

+ Tại Địa cầu 68 của chúng sanh có Lạc thư gồm 4 cặp đối : Càn-Tốn; Khảm-Ly; Chấn-Đoài; Cấn- Khôn và 72 Chơn Khí.

Vậy dựa vào những qui tắc Chân Lý Đạo sanh để nương theo đó mà hườn Đạo. Trời muốn về MỘT (Thái Thượng) thì 72 cõi tại Địa Sát Nam Thiện Bộ Châu

phải triệt Khảm-Ly, đưa toàn bộ 72 Hành tinh trở thành nhẹ thanh bằng 3.000 thế giới phía trên.

Có nghĩa là 3.072 thế giới có 36 Chơn Khí để không còn 4 Châu nữa. Tiếp tục đưa 3.072 Thế giới Vô Sắc Giới không còn 36 Chơn Khí mà chỉ còn 12

Hư Vô Chi Khí. Có nghĩa là Quả Càn Khôn vẫn y hình thể vị trí trong Hư Không nhưng Chơn

Khí trong Quả Càn Khôn thay đổi toàn phần từ Trược về Thanh. Đến Thuần Thanh, nó hoàn toàn có sự sống vô hình, không còn sự sống hữu thể

trược nữa. Tất cả các Hành tinh trược ở Nam Thiện Bộ Châu. Cuộc sống hữu hình của Thất

Thập Nhị Địa được thăng dần đến vô hình sạch trược không còn Địa ngục nữa. Mọi Hành tinh đều có giá trị Thuần Dương tương đồng nhau. Đây là trên Lý. Về mặt Quái Đồ thì lộ trình về Nhất này xảy ra như sau : Trước tiên làm cho 72 Địa Sát Lạc Thư trở lại Hà Đồ :

Page 82: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

82

Từ Trung Giới trở lên tất cả đều hình thành từ Tiên Thiên Khí cả do trược và thanh mà Trung Giới sạch còn 36 Chơn Khí còn trong 7 cõi (Mỗi cõi có 10 Hành tinh).

72 Địa cầu có trược chất gấp đôi, từ 36 x 2 = 72. Do vậy mà 72 Địa cầu quay nhanh nên tán vạn thù từ 8 cung cơ bản thành 64

cung Lạc Thư vạn hóa, trược chất gấp 2 lần Hành tinh Trung Giới. Thật vậy, giống như cơ thân con người, những cơ quan, tế bào ở Hạ Đơn Điền

có trược chất nhiều vì ở gần Tiểu và Đại Tràng đó. Vậy muốn cho Nhơn thân (gồm Tam Điền) từ đầu đến chân có một giá trị thanh

như nhau thì chỉ Chấp Pháp để loại trược, để Chơn Khí nhân thân quy Nhất Khí. Đấy là Tiểu Thiên Địa. Ở cơ thân Đại Thiên Địa cũng một Lý đó mà thôi. Khi mà sạch trược 72 Địa cầu

trong Nam Thiện sẽ trở lại Thanh Dương tương đương với cõi Trung Giới và không dùng Địa ngục nữa.

Thế nhân đừng sanh tâm cho rằng Hườn Đạo là giai đoạn thoái hóa của hai cơ

thân Tiểu- Đại Nhơn Thiên Đồ. Mà Quả Càn Khôn của Thầy Trời nên nền Đại Đạo này còn phải tiến đến một

nền Vô Vi Càn Khôn Đại Đạo, là đến chỗ vô sinh, vô diệt cho cả một Quả Càn Khôn! Cũng như vậy, nền Nhơn Đạo nếu để y không dùng Bảo Pháp mà can thiệp thì

cơ thân mãi ở trong tử sanh, sống để liên tục tiến hóa đạt đến đỉnh điểm vĩnh tồn (Thành Phật ).

Nên ai ai đều phải ý thức cao: Chấp Pháp đúng lúc thì mới thoát ra Tam Giới cho kịp, kẻo sự già chết không chờ đợi con người.

Vậy Thiên-Địa-Nhơn đồng hành để cùng về MỘT. Đó là mục tiêu quyết liệt mà phải đưa lên khai hóa cấp thời trong Tam Thiên để

đồng về chỗ vô sinh, vô diệt . Vậy ở Thất Thập Nhị Địa có cuộc sống hữu hình trong những Hành tinh có đều

đủ Dương-Âm. Dương là cơ Sanh hóa trên Hành tinh. Âm là xác thể Địa cầu đó. Sự sống trên mỗi Hành tinh là Dương khí của Thái Cực thuộc về Càn cung

Page 83: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

83

, còn Hành tinh là Khôn (Âm) . Trời Thái Cực dụng Cơ Pháp Hườn Đạo cho Chơn Linh quy về. Tại Đại cầu chúng sanh 68, Trời Phật đã quyết liệt hạ phàm hoàn sanh đưa Chơn

Linh quy hồi, đồng thời nâng giá trị Cơ Sanh hóa lên dần dần để tiến đến Địa cầu cũng Thuần Dương đó.

Cơ lâm phàm của Đức Thái Cực tại Việt Nam đây nằm trong mục tiêu đó. Hỡi thế nhân hãy cố hiểu thông!

A- CƠ PHÁP HƯỜN NGUYÊN THIÊN ĐỊA Đức Thái Cực động niệm hoàn sanh Đạo Pháp. Đức Thái Cực và Đức Linh Bửu Thiên Tôn đồng Chấp Pháp vận hành Thiên cơ,

đem lửa Hư Vô Bính Hỏa theo các đường thông khí trần xuống hạ Địa Phủ, Nam Thiên Bộ Châu.

Bính Hỏa hóa Khí, Chơn Thủy Toàn Châu sạch trược thăng. Đẩy lùi Đinh Hỏa và Quí Thủy ra Hư Vô.

Để trả về Khí Tiên Thiên, cần thời gian vận hành Cơ Pháp, chuyển hóa, tuần hoàn thuận hành hóa sanh lùi rồi dứt hẳ đến dứt tận tuyệt.

Trong khi đó đường hườn Đạo nghịch hành được Thiên cơ thành lập và hiện hữu vận hành trái Càn Khôn. Đến một lúc nào đó Lạc Thư Đồ bị tắc hẳn từ 64 Quái Hào Hậu Thiên chuyển hóa thành 8 Quái Hà Đồ.

Toàn bộ trái Càn Khôn chỉ động tịnh theo cơ chế hườn sanh của Hà Đồ, nghịch lại đường hóa sanh trước kia.

Quả Càn Khôn gồm 3.072 Hành tinh có sự sống vô hình hữu tướng y nhau, không có cao thấp. Âm-Dương không còn nên Địa ngục không dùng nữa.

Cơ Pháp Tam Thanh tiếp tục chuyển hóa Hà Đồ nghịch vận chỉ còn :

Page 84: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

84

- Thanh Đế, Xích Đế triều nguyên là 3 + 2 = 5 Hội vào Trung tâm thì 3 Nhà 5 - Bạch Đế Hắc Đế triều nguyên là 4 + 1 = 5 đồng trụ đỉnh.

Chơn khí thoát Tam Thanh .

Tam Ngũ đã đồng quy gia thăng về Thái Cực Hợp Nhất. Đây là Thiên Đắc Nhất dĩ Thanh. Đại Từ Phụ đã thành Càn Khôn Đại Cổ Phật. Thiên-Địa hườn nguyên Chơn Pháp đến đây xin dừng lại vì nó ngoài kiến văn

của Tri thức. Mong rằng chúng sanh sẽ có một thời đại kỷ nguyên gần đây sẽ có Đấng triển

khai tiếp Diệu Huyền Chơn Pháp này.

II- CHƠN TÂM-CHƠN TÁNH. (Bài 31) THÁI CỰC LINH CĂN CHƠN TÁNH. LINH BẢO-LINH ĐÀI

Tâm con người có rất nhiều tên. Tên thì không quan trọng. Cái tính năng vạn thù

của Tâm là chỗ dụng của Tâm mới quan trọng. Trong Thiên-Địa, Thái Cực là cái Chơn Lý Độc tôn không thứ gì trong Trời Đất

mà không ra từ Thái Cực. Thái Cực là Tâm đầu của vạn loài. Nói đồng là vạn loài vì đều có nhận ở Thái Cực một Khí Tánh gọi là Thái Cực

Linh Căn Chơn Tánh. Người Việt Nam ta quen gọi là Linh Hồn- Tâm- Tánh.

Khi còn tại thế, Đức Thích Già vẫn xác định : “ Chúng sanh đều có Phật Tánh và mỗi chúng sanh là một vị Phật sắp thành”…

Trong Kinh cúng Thái Thượng có câu : -…”Nhị ngoạt Thập Ngũ phân Tánh giáng sanh, Nhất thân ức vạn- Diệu huyền Thần biến …”

Thế là giữ Thượng Ngươn Trời có đưa 100 ức (1 ức = 100.000) Thái Cực Linh Căn Chơn Tánh xuống trần, nơi Địa cầu 68 để có thân tứ đại mà tu thành Phật.

Vậy cái tính năng của Thái Cực Linh Căn Chơn Tánh là như thế nào ? Có nghĩa là Tâm của chúng sanh có đặc tính do Trời phú. Vậy Tâm nó ra sao ? Chơn Tâm trụ chỗ nào ? Dụng Tâm nó biến ra sao ?

Page 85: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

85

CÀN KHÔN VÕ TRỤ - KHỐI ĐẠI LINH QUANG

Page 86: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

86

Trong Phật Giáo, giữa nhị vị Thần Tú và Huệ Năng đều khác nhau về Tâm. Thần Tú cho Tâm vốn có gốc sanh, đủ thứ nhiễm, đủ thứ muốn. Có Tâm tốt phải giữ gìn vệ sinh thì Tâm mới sạch.

Trái lại Huệ Năng chủ trương : “Tâm chẳng có gốc nguồn, tìm cầu chẳng phải. Bản Tâm đầy không, tròn rổng.

Mọi cái Có lầm nhận là Tâm, thực ra đó là cái dụng của Tâm. Chơn Tâm là chỗ vắng bặt, không cội nguồn”.

Chủ trương Tâm Không của Huệ Năng đã đạt đến Chân Lý Thái Cực mà Đức Thượng Đế đã dạy nhiều.

Thầy là Ngôi Thái Cực Đạo Sanh có MỘT MÌNH THẦY là Ngôi chí thiện, chí mỹ, toàn tri, toàn năng, biến hóa vô cùng, làm Chủ Đất Trời, hóa sanh, trưởng dưỡng muôn loài.

Thầy là CHA của Chư Phật Tiên và của các con. “Thầy là Đại Thiên, con là Tiểu Thiên, bởi Thầy có gì, Thầy cho con có nấy!” Mà Ngôi Thái Cực là vô tướng, vô hình. Khi Đức Thái Cực động niệm sanh Đại

Tạo, liền hóa thành 3 Ngôi :

Nguyên Thủy Thái Thượng Linh Bảo (Vô Âm, Vô Dương) (Dương) (Âm) Neutron. Electron (+) Electron (-) Nguyên Thủy làm Chủ, cho Âm-Dương giao hòa, liền sanh là 12 Chơn Khí, liền

hóa sanh ra cõi TỐI ĐẠI NIẾT BÀN. 12 Chơn Khí tiếp tục động sanh ra Trung Giới. Hà Đồ Bát Quái có 24 Chơn Khí nữa, đã lập thành 36 Tầng Trời và 3.000 Thế

giới. Trong một Sát-na động của Thái Cực mà đã sanh hóa ra một Đại Đạo. Công trình lớn lao như vậy có hệ thống logic thông số khoa học chặt chẽ đến

diệu huyền, có phải hết đâu. 36 Chơn Khí Trung Giới động sanh ra Thất Thập Nhị Địa Cầu tạo thành Càn

Khôn võ trụ từ chỗ Cao đến chỗ Đài dài 10 muôn 8 ngàn dặm. Tâm Không của Thái Cực chỉ một ý niệm mà sanh hóa ra Càn Khôn võ trụ như

vậy đó. Cái niệm chỉ là cái “dụng” của Chơn Tâm cho nên Vạn Pháp (vạn niệm)

sanh ra từ nguồn Tâm và Vạn Pháp bị diệt tại nguồn Tâm.

Tất cả các Pháp (niệm) sanh ra như huyễn, như giả. Các Pháp có tính công bằng. Các Pháp nối chuyền tạo thành nhân quả trùng trùng.

Page 87: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

87

Chúng sanh sống trong niệm tưởng như ảo, như huyễn, như say không tỉnh, như muôn sóng không ngừng nghỉ. Nó hóa sanh ra Lục Đạo Âm Ty.

Chúng sanh đâu chịu tỉnh để trở lại chỗ vô sinh của Chơn Tâm mà thấy điều vô diệt.

Do đó niệm Thái Cực sanh hóa ra Càn Khôn võ trụ trùng trùng trong Đại Đạo cũng ở trong Chơn Lý trên.

Vậy chúng sanh đã phần nào có ý niệm khái quát cơ bản về Chơn Tâm của chính mình chưa ?

Nhớ xác định đâu là “gốc”, đâu là “ dụng” của Tâm.

Ta mượn Tề Thiên trong Tây Du Ký mà tiếp chuyện với chư vị. 100 ức Nguyên căn xuống trần đồng nghĩa với Tề Thiên sanh ra do Trời Đất tại

nhân gian. Đây có thể nói Tề Thiên là Nguyên căn tại trần đó. Tề Thiên chưa thành Phật, chỉ có cái Chơn Tánh của Tạo Hóa thôi. Trời có gì, Tề thiên có nấy: Từ Thiên Đàng ngồi ghế Thượng Đế; Ăn đào Tiên tại gốc; Dự tiệc Bàn Đào vừa

ăn, vừa ném; Uống thuốc trường sinh của Thái Thượng trào ra hai mép; Nấu Càn Dương Hỏa thành mắt đỏ tròng vàng.

Lôi Công đánh Tề Thiên chẳng qua là tẩy trược. Đắc Đạo rồi xuống Địa Phủ xóa tên Tam Giới Đất Trời.

Tề Thiên chẳng sợ một ai. Đặc biệt Tề Thiên không hại người, chỉ sát phạt kẻ ác…biến hóa vô cùng!

Khi đến tới Lôi Âm Tự (Thành Phật), Tam Tạng mới hoàn toàn kiến được Chơn Tánh của mình. Thì ra đó là Tôn Ngộ Không đó.

Vậy khi đi tu, Tánh nó đóng vai trò “Không” để hỗ trợ cho Nguyên căn hành

thiền. Tánh nó không cần học cái gì nữa cả vì vốn Thái Cực đã ban cho Tánh đầy đủ cả rồi. Trời có gì, Tánh có nấy rồi.

Tánh chỉ chờ cái xác thể thành Phật để Tánh quyện vào thành một vị Phật thật sự. Nếu không có thân Phật thì Tánh dễ bị tiêu diệt ra khói bụi.

Một sai lầm cúa các Tăng trước kia là nhận cái “dụng” của Tâm mà cho nó là Chơn Tâm, rồi dùng cái “dụng” đó làm nền tảng cho sự tu thiền, cuối cùng làm sái nên không Đắc Đạo nữa.

Xin nhắc :

*Cái Tâm khi động, niệm sanh (một niệm là Thái Cực- Hai niệm là Lưỡng Nghi, 3 là Tam Thanh, 4 niệm ngũ Hành).

Nếu không dứt niệm thì muôn niệm tiếp sanh.

Page 88: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

88

Niệm sanh nó vốn thông thạo vạn sự, từ huyền vi đến hữu thể, niệm nó diễn đạt Lý mầu cho ta chứng.

Do vậy mà ta tưởng cái niệm tu này là Chơn Tâm.

Mỗi đề xuống trực diện tưởng Chơn Tâm Kiến Tánh Thành Phật. Nào ngờ vẫn ở trong muôn niệm mà tu. Như vậy đó làm sao kiến Tánh ? Phật Pháp sai lạc Chơn Truyền!

Thí dụ rằng con gà mái đẻ ổ trứng đang ấp như do nó sanh niệm rằng : “Thôi, mình lìa ổ ra ngoài kiếm ăn. Tâm lúc nào cũng nhớ ấp ổ trứng là được”.

Thế là nếu gà mái lìa ổ 3 hôm, thì ôi ! Trứng đã um cả rồi ! Phải dùng Tâm Chơn vừa Có, vừa Không. Mà phải Thân-Tâm song tu mới Kiến

Tánh. Như con gà muốn trứng nở phải cả thân tâm cùng ấp, trứng mới nở.

Đức Thượng Đế cũng dạy : “Đạo Thầy chỉ một chữ Không, Chữ Không làm được Lục thông chứng liền.”

Lại có người nói Tâm viên, ý mã: Tâm luôn hiếu động như con khỉ. Ý mã vọng xa vạn lý như ngựa chạy. Dầu có ví bao nhiêu tên, bao nhiêu sự thì nhớ một điều :

Thái Cực là gốc của Tâm. Mà Thái Cực vô vi, vô tướng. Thái Cực ra sao thì Tâm mình như vậy. Không lý luận nhiều dễ nhầm sai.

Khi vọng động, vọng niệm thì nhớ đến Chơn Như Thái Cực mà Tâm Chơn. Khi sanh niệm để tu là lúc biết dụng niệm để tu, không để niệm sanh.

Riêng ở Phật học, biết bao Kinh điển nói về chữ Tâm. Chơn Tánh tìm cầu cho nhọc trí.

Cứ níu lấy cái Chơn Lý Thái Cực ở trên làm gốc, đừng cho Tâm sanh vọng niệm nhiều.

Cần biết lúc nào nên động niệm, lúc nào trưởng dưỡng Tâm Không. Chỗ cao nhất của Chơn Lý Phật là niệm, là cái « dụng » của Tâm. Nó như muôn sóng hiện trên mặt nước, hiện lên rồi xua dồn lên nhau gây ra bao

hiện tượng rồi muôn sóng lại tự mất. Bản thể của nước vốn lặng yên. Tâm như nước, niệm như sóng.

Thái Cực động niệm Đại Tạo, sanh hóa ra Càn Khôn võ trụ cũng là huyễn, là giả. Nhưng ta cũng phải trung hòa giữa « Có » và « Không ».

Nếu không có cái Có thì sao Linh Tánh thành Phật đặng mà trở lại làm khối Đại Linh Quang lớn thêm ra.

Chư nhu học Dịch cần dè dặt đặt trật một ly đi xa tít mù đó.

Để đáp ứng nhu cầu tri thức nhân thế, đồng thời tìm cầu nguyên lý, định luật, ứng dụng đem lợi ích cho cuộc sống trên mỗi Hành tinh.

Page 89: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

89

Hà Đồ là nguyên lực sanh Quả Càn Khôn. Lạc Thư là nguyên lực cho mỗi Hành tinh. Do đó Hà Đồ, Lạc Thư dung chứa các Pháp đầy ấp trong Chân Không. Mọi môn học, mọi phát hiện đều từ thấp lên cao, từ phàm đến Phật. Ở hai nguyên lực (Hà-Lạc) đã có đủ tất cả, không gì mới cả. Mà khi tìm thấy

được nguyên luật thì chẳng luật nào cũ cả.

Thái Cực là Tâm điểm của vũ trụ.

Khoa học tại Địa cầu là Chơn Lý của Thái Cực để phục vụ sự sống và tiến hóa là thuận Lý Trời.

Sử dụng khoa học để phản lại sự sống là đi ngược lại Đức hiếu sanh của Trời. III- BẤT CẬP TRONG DỊCH THỂ (Bài 32)

Chữ Dịch gồm chữ Nhật (日) trên, chữ Nguyệt (月) dưới (易)

Chữ Dịch (易) chính là quẻ Hỏa-Thủy vị tế Chữ Minh gồm chữ Nhật (日) hợp với chữ Nguyệt (月) : Minh (明)

đứng trước, đứng sau . Có nghĩa là nói Ly sanh trước mà Khảm sanh sau ?

Chữ Dịch (易) và chữ Minh (明) bất cập như thế nào ?

Về phương diện Đạo học : Tu Đơn là luyện Tinh hóa Khí mà lửa trên, nước dưới. Hỏa (lửa Ly) ở Trung

điền, Thủy (Khảm nước) ở Hạ Điền không giao hòa được nên gọi Vị tế là đúng.

Về phương diện Đạo sanh : Ly trên, Khảm dưới hay đảo lại đều có sự giao hòa cả. Ở đây muốn nói ra quẻ

Hào dịch chưa lột hết nguyên lý của Đạo. Chữ Nguyệt (月) đứng sau chữ Nhật (日), nó áng mất ánh sáng Mặt Trời rồi

cung Khôn là Trái Đất tối thui, sao gọi là Minh được ? Chữ Đạo (道) : Không lý nào ta go ép, gò bó hoặc ức chế nguyên lý Đại Tạo

của võ trụ Càn Khôn vào một « ký tự » là chữ Đạo rồi ôm lấy « ký tự » mà diễn lập Chơn Lý của Trời Đất.

Biện giải, thật là mượn giả mà tả giả. Lý nguyên Chơn Đạo ở đâu trong cái giả đó mà tìm cầu ?

Vậy khi giả Đạo từ « ký tự chữ Đạo », hãy nói rõ là mượn giả dẫn đến chơn.

Page 90: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

90

Các Quẻ Dịch hình quẻ vô tình giống vật thể rồi gò ép Lý của Quẻ Dịch, đặt tên rồi biện giải cho là diệu huyền.

Cái Chơn thật của Dịch chính là : 108 nguyên tố hóa học chuyển hóa, hóa hợp. Từ Đơn tố đến Hợp tố, một môi trường phối trộn logic.

Qui mô trong Hư Không thành lập các phương trình móc nối hóa chất, hoặc theo Động mà lập « Dịch » là hai thao tác cho một việc.

Đi tìm nguyên lý Đại Đạo từ phương thức hóa chất hay tìm nguyên lý Đại Đạo từ Hào Quẻ Dịch.

IV- TAM ĐIỀN- CỬU KHIẾU (Bài 33) NHÂM ĐỐC MẠCH (HÀ ĐỒ)

Page 91: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

91

Ở trên đã nói Thiên Đạo hườn sanh (Thiên Đắc Nhất). Nay đây nói đến Hóa Nhân hườn sanh. Ta đã rõ Bộ tuần hoàn của con người vận hành theo phương thẳng đứng. Còn thú

cầm có Bộ tuần hoàn theo phương nằm ngang. Con người sinh hoạt : Đi, đứng, ngồi… thì Bộ tuần hoàn vẫn giữ được tư thế

đứng. Lúc nằm nếu nằm thẳng thì vô tình đồng với thú cầm : Bộ tuần hoàn nằm ngang, đầu đít ngang nhau, não bộ và phân, nước tiểu phối trộn, bá mạch đóng lại hôn trầm, ác mộng sanh ra !

Do vậy mà Cổ nhân tu hành đã tách được thanh trên, trược dưới. Rồi Cổ Thánh ngồi mà chẳng nằm.

Ngày nay Chiếu Minh dùng ghế bố để giữ Đầu luôn ngóc cao hơn đơn điền để nằm nghĩ sau công phu.

A- PHƯƠNG ÁN HƯỜN SANH CỦA HÓA NHƠN.

Thiên- Địa đã cài đặt cơ quan hoàn sanh trong Hà Đồ Thiên cơ để Hóa căn tiến hóa theo hệ thống ngược của Cơ Sanh hóa, cụ thể là :

Con người tại Địa cầu sống nhiều kiếp (ít lắm 90 kiếp làm người) mà kiếp nào cũng sống tích cực trên mức chuẩn thì sẽ chuyển qua Địa cầu phía liền trên, cứ thế tiếp tục qua 72 Địa cầu ở Nam Thiện Bộ Châu rồi qua 36 Tầng Trời vô hình với 3.000 thế giới mới chứng đắc giải thoát. Đây là một lộ trình gian nan muôn triệu kiếp.

Khi qua một Địa cầu mới là Chơn Khí trong thân hoàn toàn hợp với Địa cầu mới. Một định luật cố hữu là nhẹ hơn thì thăng lên mà nặng hơn thì tụt xuống (thoái hóa kiếp sống). Có khi biết lo tu hành thì chỉ vài kiếp đã thăng lên rồi.

Hễ sống bất cứ Hành tinh nào mà biết tinh tấn như : Tâm thì bỏ dần tạp niệm, thân huân tập việc lành, Thân-Tâm Thanh Dương là siêu xuất đó.

B- PHƯƠNG ÁN HƯỜN NGUYÊN CỦA NGUYÊN CĂN.

Đầu Thượng Ngươn qua, Đức Thượng Đế chiết và đưa 100 ức (1 ức = 100.000) xuống tại Địa cầu (cõi ta bà) này, mục đích là để Nguyên căn có thân tứ đại tu thành Phật trở về.

Thế rồi nay đã 129.000 năm, Nguyên căn đã quên mất đường về, còn đắm chìm trong sanh tử ở lò Thiên quân Tam Giới.

Nay Đức Thái Cực lâm phàm mang theo Chơn Pháp để Nguyên căn trở về. Đồng thời vô số chư Phật Tiên trong khối Đại Linh Quang cũng lâm trần tá trợ

đa phương cho Nguyên căn. Và quyết liệt hơn, Đức Thái Cực ban Sắc Chiếu, lấy CHIẾU MINH làm vai trò

hườn nguyên cho Nguyên căn. Đức Thái Cực cũng mở Đại Xá cho Nguyên căn chỉ một kiếp tu sẽ được quy hồi cựu vị.

Thiên cơ đã vận hành, Đại Từ Phụ trực tiếp thu nhận Nguyên căn, ban Bảo Pháp cho tu và xong qui trình tu, Đại Từ Phụ cho triệu hồi.

Thầy không giao Chánh Giáo cho tay phàm !

Page 92: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

CỬU KHIẾU- TAM ĐIỀN

Page 93: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

Vậy mỗi Đàn Chiếu Minh giống như : - Chiếc thuyền đưa Nguyên căn qua bờ Bĩ ngạn. - Vị Tổ giữ gìn và ban Pháp hườn sanh theo Thiên ý.

Rồi đây Nguyên căn sẽ bị Thiên cơ chuyển vận, lần lần cũng tìm đến Chiếu Minh mà về. Vậy kỷ nguyên này chỉ có CHIẾU MINH mới có vai trò Chấp Pháp Độc Tôn, vì có như vậy mới bảo đảm công trình quy nguyên của Chơn căn.

Mọi sự chu đáo theo Thiên ý của CHIẾU MINH là cần thiết để Nguyên căn vững tâm tinh tấn quy nguyên. Chiếu Minh luôn là cơ quan Khai Pháp theo Thiên ý, khẩu thọ mật truyền, không lập văn tự.

Vậy Chiếu Minh dẫn độ Chơn căn quy nguyên theo qui trình Dịch Lý như thế nào ?

Khi xuống trần Nguyên căn sống không xa cách thiên nhiên. Tánh Trời còn ở đây, trong thân tâm nên cung Khảm ở trên, cung Ly ở dưới. Do ở trong cõi dục nên dâm tình chủ động, Khảm cung giáng hạ mà Ly cung nộ

khí lại thăng cao.

Page 94: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

CHƯƠNG THỨ TÁM : ĐẠO PHÁP I- LUYỆN TINH HÓA KHÍ- (Bài 34) CHIẾT KHẢM ĐIỀN LY

Nguyên căn đang sở hữu một thân tứ đại gồm Tâm Hỏa cư Huỳnh Đình, Thân Thủy cư Đơn Điền. Nhâm mạch, Đốc mạch bị bế. Cửu Khiếu đóng kín.

Khảm cung trong đây có một Chơn Tánh của Trời. Nó đang bị kẹp giữa hai Âm và đang ở Hạ cung Đơn Điền. Tánh là gốc, mà gốc đã quay đầu xuống rồi, đang ở Bộ tuần hoàn như Thảo mộc đó. Đây là Chơn Tánh bị đè, không tu thì vĩnh viễn không thăng hoàn cựu ngôi vậy.

Có lẽ vì đắm trần, Âm khí nhiều mà không còn biết lối về. Ta xét nếu Đức Thượng Đế không ban Chơn Pháp thì Nguyên căn sẽ thối kiếp, làm mất luôn Chơn Tánh, đừng nói đến chỗ quy nguyên.

Đức Thái Cực đã dạy : « Nhãn thị Chủ Tâm, Thần quang Chủ Tể. Thần thị Thiên, Thiên giã ngã giã. »

Tạm dịch : « Chủ của Mắt là Tâm,

Tâm có ánh sáng (Thần quang) là Chủ. Ánh sáng đó gọi tên là Thần. Mà thần là Trời. »

Trời có gì, con có nấy ! (Trời đó là ta đây). Vậy Hào Dương ở cung Khảm-Thận. Ấy là Thái Cực Linh căn Chơn Tánh, nay

biến thành Thận trong thân tứ đại đó ! Vậy nguyên căn trước Thầy thọ lãnh Pháp hườn sanh Chiếu Minh, thụ truyền

Chơn Pháp : LUYỆN TINH HÓA KHÍ. Để giải phóng Chơn Tánh hóa khí thăng ra khỏi Đơn Điền, Nguyên căn đã lập

Thệ, lập Nguyện trước Tạo Hóa xong, hạ quyết tâm công phu tu hành. Đây là lúc « Tu » để gỡ lá bùa cho Chơn Tánh bùng thăng lên. Tánh Mạng hợp

tu và cần phải trang bị thêm các thứ . Trước khi hạ công phu ta nên có :

- Cái Bình bát để đựng cơm ăn suốt quá trình tu, không đặng tuyệt cốc. - Bỏ ý phàm, dùng Chơn ý để tu. - Tịnh động công để quy Tam bửu (Tinh-Khí-Thần).

Tánh ăn, Tánh thở của ta đó đã cướp của Hóa Công và Thảo mộc làm Ngươn Tinh. Khi Tinh lưu hành đến trung gian lưỡng Thận, ta dụng « ý mã » bật cho Tinh bay lên mà đi ngược về Não. Tay động, chân khua, hỗ trợ cho ý mã thêm năng lượng, bật càng cao, càng mạnh, càng hay. Lâu dần Tinh quen đường lối mới vừa sanh đến Thận liền đi ngược về Thượng Điền.

Page 95: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

95

Trên đường từ lưỡng Thận đến đầu Tinh nó khai thông Cửu Khiếu. Từ đó trong Cột Sống của ta đã thông Tam Điền và đường Đốc Mạch, Nhâm Mạch được nối liền. Hai cầu Hạ-Thượng kiều đã nối được. Hai mạch Nhâm- Đốc chính là vòng tuần hoàn Hà Đồ. Có vòng tuần hoàn thì có Chơn Tử xuất hiện, trược thanh đã được phân định. Lạc Thư đã phản lại làm Hà Đồ. Chơn Khí Khảm cung về Huỳnh Đình. Tạp Hỏa Ly cung đã giáng Hạ Đơn Điền. Cơ thể phàm dần dần chuyển hóa ra Thánh thể.

Ta chỉ lấy Ngươn Khí tại trung gian lưỡng Thận vì là Nhâm Thủy. Nếu Tinh xuống Túi Tinh, đó là Quý Thủy, trược Tinh. Khi mà có Tinh xuống Túi Tinh vì ta phạm 2 lẽ :

1/ Ăn uống bình thường mà bỏ công phu (không lấy Tinh). 2/ Trong lúc luyện Đạo để vọng niệm dục tình sanh, Tinh đi xuống. Dương sanh là Tinh hóa Khí bốc lên, chưa dẫn đi nên có Dương sanh. Người tu

luyện tinh tấn thì vòng tuần hoàn Hà Đồ luôn chuyển vận đưa Tinh thành Khí « đi ngược »rồi, đâu còn tồn đọng mà có hiện tượng Dương sanh.

3 + 2 = 5 Tam Ngũ quy gia tại cung trung một nhà 5 4 + 1 = 5

Trong Tây Du Ký, Tam Tạng tu mỗi lần Dương sanh, cây “Kim cô “ co cứng. Dùng khí Dương sanh này mà đánh phá một Khiếu. Đả thông được Khiếu rồi tiếp tục tu, chờ Dương sanh nữa mà phá cho hết Cửu Khiếu. Hết thâu Dương rồi thì cây Kim cô nó “bé” lại, còn “nhỏ xíu”, để vào lỗ tai vì lỗ tai thuộc Thủy, là cửa ngõ của Thận.

Ngày nay Pháp của Thầy lấy Tinh liên tục. Ăn buổi sáng thì trưa lấy Tinh, chiều lấy Tinh… Tinh hóa Khí liên tục thông hành ở Lưỡng Mạch, Cửu Khiếu. Khí đi, Bộ tuần hoàn Hà Đồ muốn cướp luôn Bộ tuần hoàn Nhơn Đạo (Lạc Thư).

Pháp Bảo vừa đủ mạnh để tách Âm-Dương, phá thông Cửu Khiếu. Vòng tuần hoàn nghịch hành chuyển hóa càng ngày càng mạnh dần : Tam Bửu triều nguyên.

Tại Hội Thánh phổ thông Tiên Thiên, Đại Từ Phụ lập thành 72 Thánh Tịnh để tương ứng 72 Địa cầu tại Nam Thiện Bộ Châu. Và trong đó có Thánh Tinh Ngũ Long môn (đủ Ngũ Hành).

Page 96: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

96

Thầy giao Thánh Tịnh này hằng năm phải tổ chức Đại Lễ : Đoan Dương Trùng Ngũ vào ngày 05 tháng 05 là cầu nguyện cho ngoài Thiên –Địa tuần hoàn ổn định và sự quy nguyên Thiên-Địa …

Cầu nguyện sự tu luyện của Nguyên căn được Tam Ngũ quy gia, tức Tam Huê tụ Đảnh- Ngũ thông cơ Pháp.

Vậy Lễ Đoan Dương Trùng Ngũ tại Thánh Tịnh Ngũ Long Môn nắm vai trò quan trọng trong việc quy nguyên của Chơn căn theo qui trình nghịch vận sau :

Khi Tinh đã liên tục “ bật ” lên tại Thận , đi ngược lên Não, phá Cửu Khiếu, khai thông lưỡng mạch Nhâm-Đốc là lúc Lạc Thư trở lại Hà Đồ.

Còn 4 cung Tứ Tượng : Tịnh Động công Tam Ngũ quy trung :

3 + 2 = 5 (Thanh Xích Đế triều nguyên) 4 + 1 = 5 (Bạch Hắc Đế triều nguyên)

Tại cung Trung có một Nhà 5 (Huỳnh Đế) Đó là 3 Nhà 5 thống nhất tại cung Trung.

Trong cơ thân, Tam Huê tụ đỉnh tại Càn Khôn Đại Đạo Tam Thanh chi vị đó.

Chơn căn đã phục nguyên lên đến cõi Tam Thanh rồi đó. Còn Đoan Dương Trùng Ngũ là nhơn ngày mùng 5 tháng 5, rồi tại Trung Ương

Ngũ Long Môn là một Nhà 5 nữa.

Lễ Đoan Dương là lúc 3 Nhà 5 thống nhất. Cho nên 72 Khí đã về Nhất Khí. Đó là Cơ đạo Đắc Nhất đó.

Quá trình quy nguyên tại Tam Thanh chi vị vô vi đã đến lúc phải “ LUYỆN TINH HÓA KHÍ”.

Trong Nhất Bộ ở Tây Du Ký ta thấy quy Tam Ngũ rất rõ : Tại Tây Ngưu Hóa Châu : Ăn đào Tiên (thu Bạch Đế). Tại Bắc Cưu Lưu Châu uống Kim Đơn (thu Hắc Đế). Tại Đông Thắng Thần Châu ăn nhân sâm của Chấn Nguyên Đại Tiên (thu Thanh

Đế). Tại Nam Thiện Bộ Châu xưng Tề Thiên Đại Thánh xóa Địa ngục (thâu Xích

Đế). Tam Ngũ đã quy gia.

Page 97: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

97

II- LUYỆN KHÍ HÓA THẦN (THẦN KHÍ HIỆP) (Bài 35)

Nguyên căn tinh tấn trong 4 năm kể từ lúc hạ thủ công phu. Khi đã qua 4 năm thuần tu tinh tấn thì tới giai đoạn đến trước Thầy xin Pháp

luyện Hình (Luyện Khí hóa Thần). Kết quả của 4 năm tinh tấn đó là : Trong cơ thân Hậu Thiên phàm nhơn trước kia nay trở thành Tiên Thiên Nhân

Hà Đồ. Đạo đã hiện hữu trong cơ thân rồi. Đạo tuần hoàn, Càn Khôn thế nào thì Đạo tuần hoàn trong cơ thân y như vậy nên mới gọi là Đạo.

Nên nhớ Đạo này là do ta tập thực tu mới thực chứng đắc. Không phải ai cho mà được. Đạo này cần phải tiến tăng thêm mãi, lớn mãi. Nếu bất đắc thoái lui, bỏ tu thì Đạo sẽ mất dần. Được khó mà mất dễ. Cổ Thánh từng khuyên.

“Nhơn năng hoằng Đạo, Đạo bất hoằng nhơn”. Thầy thấy rõ Đạo trong người của Nguyên căn nên Thầy cho bài học mới nếu

Đạo đó đạt chuẩn. Thầy hỉ lạc tiếp ân Chơn Pháp cho Nguyên căn luyện : - Hai Chi trên kết với hai Chi dưới : Âm-Dương Hà Đồ thường chuyển Nhị lập.

rồi sau đó trung hòa hai Bộ tức đủ Tam Thanh chi vị. Hai Chi trên là Dương. Hai chi dưới thấp là Âm. Một Âm, một Dương, Tịnh-

Động Pháp khởi Hà Đồ. Khí theo Ý hội tụ tạo Hình Thần-Khí quyện nhau chẳng phút nào rời.

Tay động, chân khua, ba hồi, chín chập. Thần trụ trung Huỳnh, Ngọ Dậu thời Thần đâu, Khí đó.

Khí là gió cung Tốn của Hà Đồ vòng Nhâm Đốc Mạch. Thần là Hỏa. Thủy hóa Khí, Thần-Khí chẳng lìa. Thủy hóa Khí bao nhiêu thì Thần lớn bấy

nhiêu. Đây chính là chỗ Hà Đồ vận hành tại Điện Tam Thanh Bắc Thái Cực Linh Căn Chơn Tánh.

Tề Thiên luyện vào máy Thiên cơ đủ 9 x 9 = 81 ngày thì Khí đã hóa Thần. Tề Thiên mắt đỏ, tròng vàng, năng lượng dồi dào. Đó là Luyện Khí hóa Thần. (Thần là Tề Thiên . Khí là cung Tốn ; Thần-Khí hiệp ).

Chư Linh Quân nên nhớ rằng phía trước Dịch Lý Dương luôn Động, có khuynh hướng thăng lên. Còn Âm thì Tịnh. Bởi Tịnh nên có hướng trầm và lắng trụ.

Cơ Pháp của Thầy thì Động mạnh, quậy cho tưng bừng lên, cho Dương thoát ra thăng lên, Âm thì rời ra và lắng xuống để phân thanh biện trược rõ ràng.

Các cõi Thượng Thiên nếu còn một chút Âm cũng không thể ở đặng. Vì Âm còn gặp Dương khí thì nổ (sét) đấy. Mà nổ thì Chân Thân đâu còn.

Đạo Thầy chủ yếu ở Âm-Dương trược thanh. Thầy ban Nhị Bộ là tại Tam Thanh Điện. Mục tiêu là quy thông Tam Ngũ, Tứ

Đế vào Trung Ương để quy thống, vo tròn làm MỘT. Làm MỘT là Nhất Lý Thái Cực Thần Quang . Vị trí Tam Thanh là Đồng vị với Thái Thượng Đạo Tổ.

Page 98: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

98

Quá trình tiến đến Nhất điểm Thái Cực (Ngôi Hai đã về tới Điện Tam Thanh

rồi), đòi hỏi sự tinh tấn năng chuyển Pháp luân cho Thần Khí quyện vào nhau mà chuyển luân và Thần (Tâm) trụ tại « Phật ». Khí theo Phật mà hình thành dần lên. Nói khác đi là Phật tăng huy đó.

Ta đã rõ ở Dịch Lý : Thái Cực động niệm sanh Nhất Lý Thái Thượng – Chơn Thanh và Ngọc Thanh. Tuy Ba mà Một.

Linh Tánh khi quy nguyên tới Tam Ngũ quy thống trong máy Tiểu Càn Khôn, tương ứng Thiên Đạo tại Tam Thanh Điện.

Hà Đồ Thiên Đạo kỷ nguyên Chơn Pháp lâm phàm thì Thiên cơ vận hành hai chiều :

A- THUẬN HÀNH ĐỒNG VỚI NGHỊCH HÀNH.

Hà Đồ Thái Cực kỷ nguyên Hoàn Đạo, lực phát ra từ Tam Thanh xoáy đưa lực xuống tiếp tục hóa sanh, ổn định tuần hoàn. Lực xoáy xuống đến cuối Trục (cuối Nam Thiện Bộ Châu) lại xoáy về Tam Thanh tạo cân bằng Quả Càn Khôn, đồng thời tải Dương Khí thoát ra trong Tam Giới đưa hết lên Tam Thanh quy Nhất.

Còn tại cơ thân người, máy Tiểu Càn Khôn đã có vòng tuần hoàn thứ hai là Nhâm Đốc Mạch lưu thông suốt Tam Điền, tải vận thanh khí. Cơ thân trở thành thanh khí Ngũ Tạng, lên hội tụ tại Thượng Điền để quy Nhất.

Ở tại Nhị Bộ, khi Hà Đồ có, lúc ăn Nhơn sâm thu Dương sanh là đã có thân Phật xuất hiện rồi. Nó lớn dần theo công phu. Có nghĩa là từ cái xác phàm chứa Sanh Tử. Nay do tu mà đoạt được máy Trời, nhảy khỏi Lục Đạo luân hồi nhờ có Kim Thân. Và vẫn tiếp tục tu để về Nguyên, tuân hành Sắc Chiếu của Trời.

Thân Phật mà ta luyện hằng ngày đó có đủ Ngũ Tạng đang ở dạng Tam Ngũ quy thống.

Người còn tu Nhị Bộ, tinh tấn « Tu », tinh tấn « Luyện » cho « Phật Nhật Tăng Huy », cho Tam Ngũ quy thống.

Người đưa Tam Ngũ quy thống, thanh tịnh Vô vi, Đạo chuyển nghịch về Hư Vô Chi Khí tại Điện Tam Thanh là cõi Đại Niết Bàn đó. Thang cao đã trèo nhưng phải trèo nữa !...

B- TẬN DỤNG THỜI KỲ ĐẠI XÁ CỦA TRỜI

Người tu thời Thượng Ngươn đến nay rất nhiều nhưng Đắc Đạo rất ít vì Thiên Địa chủ trương chỉ đạo sanh, không có hườn Đạo nên đánh tản Thần, không cho Thần hiệp với Khí.

Trong Thánh Ngôn Thầy nói : “ Tại cõi Á Đông (Châu Á hay Đông Dương?) trong 2.000 năm qua duy chỉ hôm

nay có HUỆ MẠNG KIM TIÊN ( Ông Bùi Quang Huy ) Đắc Đạo mà thôi. Thật sự Đắc Đạo khó lắm.”

Page 99: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

99

Nay ở kỷ nguyên Đạo Pháp Trời mở Đại Ân Xá, đem Chơn Pháp xuống cho tu và hiệp Thần-Khí mới Đắc Đạo, có đẳng đẳng Chư Phật hộ trì, có Sắc Chiếu triệu hồi.

Thât là vạn năm khó gặp, muôn kiếp khó cầu. Thầy hứa nếu ta ngộ được Thiên Ân này, chỉ một kiếp tu Thầy cho Đắc

Đạo… Nhưng ác thay! Mắt Thầy chưa hân hạnh trông thấy được kẻ ấy…” Người tu Chiếu Minh hôm nay nên thấy rõ lòng Trời mà một lòng, một dạ nhất

tâm tinh tấn, lấy trược thân mà đánh đổi Phật Thể để ra khỏi tử sanh, vĩnh viễn dẹp bỏ cái máy luân hồi, dắt dìu thế nhân và Cửu Huyền đi về, ra khỏi Tam Giới.

Tý thời Dương mới sanh cho Đạo ra (Thần xuất) gần. Mẹo thời Dương sanh nhiều cho Đạo thăng (Thần đi xa). Có thể coi đây là Đạo

xuấy ư Đông (Mẹo Chánh Đông). Mỗi lần công phu là lúc Thần-Khí chẳng lìa. Lấy Khí nuôi Thần cho Thần đủ

đầy năng lượng, mắt lửa tròng vàng, đủ khả năng thoát khỏi Điện Tam Thanh mà thăng về cõi Trời Vô Cực Tối Đại Niết Bàn, vĩnh hằng vô sanh, vô diệt, bền vững như Trời Đất.

Sự quy nguyên Đại Đạo cho kết quả : Khối Đại Linh Quang lớn ra, nguồn Chơn Pháp vô tướng hằng tại Chơn Như.

Trong Thiên hư Thiên không, thể Tánh tự tại lắng đọng Hư Vô, viên thành Tướng Thể Thuần Dương Càn Khôn Thiên Thể. Thật là Đại Đạo Vô Vi viên thành Chiếu Minh Đốn Pháp trực giáng Nguyên căn hườn Cựu vị Vô Sanh.

- CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO ĐẮC NHẤT (toàn Càn Khôn, không dùng Địa ngục). - Địa cầu 68 Thuần Dương sánh vai với Địa cầu 67 (68 trở thành 67), không còn

Địa ngục. - Còn Quân Vương theo kịp Thiên Địa không hay thối trị ? - Nguyên căn Chiếu Minh dẫn độ về khối Đại Linh Quang. Trong Dịch Lý Hườn Đạo, đa số học giả cho là Trục Thái Cực có hai chiều quay

ngược chiều nhau. - Một nửa quay thuận chiều kim đồng hồ gọi là chiếu “ Nhất bổn tán vạn thù” ,

chiều Đạo sanh Vạn hữu. - Một nửa quay ngược chiều kim đồng hồ gọi là “chiều Hườn Đạo”. Nếu đem thí nghiệm thì điều này không thực hiện được vì : + Có lực cản nên lực ra bị cản sẽ yếu và tự tắt, không tạo thành các dãy Thiên

Hà như trên thực tế Thiên văn. Trước tiên thì Âm-Dương phân định rồi sanh ra Ngôi Thái Cực, tức là có :

Âm – Thái Cực ở giữa - Có Dương . Thái Cực đóng vai trò trung hòa Âm và Dương. Thái Cực vô hình, vô tướng. Nếu không niệm thì sao có Thái Thượng Đạo Tổ

(Thái Nhất). Nên Thái Cực trở lại là chủ Âm-Dương. Từ đó Âm-Dương mới có lập trình vận hành thành Đại Đạo. Vì vậy nên Đức Thái Cực mới gọi là Đạo của Thầy là Ngọc Hoàng Bửu Cáo, chép lại rất rõ.

Page 100: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

100

Sanh Đạo- Hườn Đạo là do ở Thầy. Máy Tạo minh mông đồ sộ như vậy như do một tay Thượng Đế mà hóa ra, cho nên Thái Cực là Ngôi chí mỹ, toàn tri, toàn năng.

Đại Thiên chẳng qua là cơ thân của Đức Thái Cực. Bộ tuần hoàn trong một cơ thân không thể có hai bộ cùng tồn tại ổn định trong mọi thời điểm.

Chiếu Minh Chơn Pháp, Nguyên căn tự phải : -Pháp luân thường chuyển thì –Phật nhật tăng huy . Vậy vòng Pháp luân Hà Đồ đó có phải tự chuyển (Chủ tạo ra) hay do ở Tiên

Thiên Đại Đạo. Rõ ràng do Nguyên tự chuyển theo lộ trình Thầy trao. Tu không còn thắc mắc Đạo do “Đạo” sanh hay do Thái Cực tạo. Trong tư thế

của Ngôi Thái Cực ta thấy có 3 dụng Âm-Dương : 1/ Dụng này chỉ : Trung Hòa Âm-Dương 2/ Dụng này là : Dương thắng Âm. 3/ Dụng này là : Âm thắng Dương. + Dụng thứ 4 có thể xảy ra là chẳng dụng 3 dụng trên. Đây là qui tắc thư tư :

hoại thân . Thật ra đây là ngoài sự hiểu biết của ta. Tại Hà Đồ ta thấy rõ là khi khởi niệm (Pháp khởi) thì chỉ có một Thái Cực . Khi động niệm Pháp khởi liền sanh Thái Nhất là Đạo Tổ. Cái còn lại là Nguyên

Thủy. Khi có Một (Đạo Tổ), liền sanh Hai, đó là Linh Bảo. Vậy Thái Thượng là

Dương, Linh Bảo là Âm. Nguyên Thủy trung hòa. Từ Cổ chí Kim thấy chỉ lệ thuộc Pháp niệm này, không có Pháp niệm thay thế

cho nên Hà Đồ tự muôn thuở kỷ nguyên vẫn y một Lý. Nếu dung Cơ Ngẫu thì Nguyên thủy là cơ mà Âm-Dương là Ngẫu: Âm-Dương phối giao liền có Trung Dương ( ) mà hữu ( ) Âm.

Đây là Đạo Trung Hòa, có nghĩa là Trung Âm ( ) mà hữu ( ) Dương, không thể khác hơn được. Điều quyết đoán ở đây là Đại Đạo Chơn Pháp do Thái Cực niệm sanh Chơn Pháp, hóa Pháp thành Đại Đạo.

Đại Đạo là cái dụng cái công trình tạo tác Càn Khôn của Thầy.

Page 101: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

101

CƠ HƯỜN ĐẠO - QUY NGUYÊN

Page 102: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

102

Tạo dựng Càn Khôn để làm mục tiêu chi vậy ?

Thái Cực Ngôi của Thầy được sanh ra tuy là toàn thiện, toàn mỹ, chí cực, chí tôn nhưng bị ức chế “ năng lượng” Chơn Tánh nên Thầy cướp lấy Khí Tiên Thiên của vũ trụ tạo thành Đại Đạo, tập thể Hành tinh rồi phóng xuất Linh Tánh lên đó, lập Chơn Pháp cho tu để quy hườn Thái Cực, để Ngôi Thái Cực thực sự là khối Đại Linh Quang.

Cái dụng của Thầy có mục tiêu cuối cùng là vậy. Còn Chơn dụng của Thái Cực là chưa lập cái “ Có, Không” ở thể Chơn Như.

Từ Khối Đại Linh Quang này trong Chân Không Vô Cực có thể lại có nhiều Đại Đạo hình thành do sự tác niệm của Thái Cực Linh Căn!

Một Linh Tánh khi có Thân Trời, Tánh Hải rồi, cái xác thân tạm mượn của Tam Giới thuộc Âm bỏ lại, nó sẽ rã tan theo thời gian rồi trở lại Tiên Thiên Khí.

Khối Đại Đạo của Trời khi Đắc Nhất rồi, toàn thể các Hành tinh dần dần tự hoại và trở lại thể Khí như xưa kia vậy.

Thực thể không gian Chơn Tánh, ranh giới giữa “Có” và “Không Chơn Tánh thường trụ không gian hẹp. Có lẽ vì thế mà không gian luôn có Tâm người niệm trùng trùng sanh.

- Một Ngân Hà –Thiên Hà –Hệ Mặt Trời- Hành tinh mà hư thì Thầy bèn lập cái khác : Đại Tu- Đại Tạo- Mở rộng.

- Cơ Sanh hóa của Thầy quy nguyên đợt trước thì có các đợt tiếp theo không ngừng nghỉ.

- Đại Đạo của Thầy mãi mãi vẫn trường tồn và mở rộng trong Vô Cực, để cuối cùng kết quả Đại Đạo và Cơ Sanh hóa là khối Đại Linh Quang!

III- ĐẠO ĐỨC (Bài 36)

A- CƠ ĐẠO CHIẾU MINH TAM THANH VÔ VI

Nguyên căn trên lộ trình hườn nguyên tất phải có Đạo và có Đức. Nhiều Đạo Đức càng tốt. Đức sẽ trừ được nợ nần trong vô lượng kiếp. Đồng thời Đức dư cứu độ được kẻ đồng hành hoặc nhân thế, khuyến tu hoặc tiếp dẫn hậu học.

Nói tắt, Nguyên căn ở lộ trình phải coi việc lập Đức là nhu cầu cần làm liên tục. Đức được sanh ra từ Đạo, nên Đạo thuộc Dương mà Đức thuộc Âm. Đạo-Đức có hai cơ chế khác nhau : - Đạo : Nguyên căn khi Thọ Pháp tu luyện tinh tấn qua 5 năm. Đã có Đạo trong

thân rồi Đạo lớn lên theo công năng tu luyện của Linh căn. Cái khổ của đời thì trùng trùng khắp chốn, cùng nơi, thời điểm nào cũng có. Tâm Tánh người tu là Tâm Tánh Từ Bi của Phật nên sẵn sàng hỗ trợ Cơ Sanh hóa của Thầy bằng cách dụng Đạo của mình mà cứu Đời.

Page 103: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

103

Đa số Nguyên căn không biết được chỗ “ Lấy Đạo cứu Đời này” và nhân thế khi nói đến Đạo Đức họ cũng không ngờ là hai thể…

Cái Đức phải được sanh ra từ Đạo. Người có Đức phải là người có Đạo. Người khổ mà khi thọ được Chơn Đức của người tu là lúc người thọ Đức được

cấy vào một lực trợ sanh. Chính xác hơn là hạt giống trợ sanh. Nó là Hà Đồ tiếp tục chuyển xoay, tồn tại không mất, do đó lợi lạc dần dần được tiếp diễn.

Tuy nhiên nếu kẻ tạo Đức không biết trưởng dưỡng đức ấy như tạo chứa ác Đạosẽ bị tắt Đức ngay.

- Đạo lập Đức có thể thực hiện ở từng cá thể tu hành, hoặc tập thể của nhiều Linh căn.

- Nếu Cơ Sanh hóa của Thầy gặp thiên tai thì cần tập thể Chơn Căn hợp Đạo mà dùng Đạo. Dương khí dập tắt Âm khí (thiên tai) cứu khổ chúng sanh.

- Trong Chiếu Minh Đạo Cao Mạch nhưng các Chơn căn chưa lần sử dụng công năng này mà hóa đổi môi trường không gian có lợi và bảo vệ sự sống.

- Đức là Chơn niệm sanh ra từ Đạo. Niệm đó là Pháp vận hành cho một động cơ (Hà Đồ). Uy lực nó rất mạnh nên là tập thể năng lượng nó toàn là Dương Khí lực, nó có sức tiêu diệt tức thì các loại Âm Khí trần gian vô điều kiện, ngoài sức hiểu biết, tri kiến của con người.

Người có Đạo, trong 4 oai nghi : Đi, Đứng, Nằm, Ngồi và ý niệm đều phát ra Đạo hiệu. Cho nên vào Đời mà không phát động niệm mà làm rối loạn tầng sóng Hậu Thiên đại địa, gây nạn cho sanh chúng.

Trong một địa phương rất an bình nếu có bậc Đạo Cao cư trú. Cái Đạo của họ như bóng đèn cao áp làm vô hiệu hóa tác dụng của các ánh sang nhỏ Âm khí, Âm quang.

Đức Thái Cực điều khiển vận hành cả một trái Càn Khôn Đại Đạo đồ sộ mênh mông cũng chỉ dụng cái Đạo đó sao ?

Chư Phật Thánh Tiên cứu Đời cũng chỉ có Đạo mà thôi! Đạo càng cao thì Đức càng lớn. Đạo là nguồn năng lượng của Đức. Đạo cao phát

ra tuệ Đức (Đức diệu huyền). Đạo Đức là hạt giống song hành tồn tại trên người thọ nhận. Đức của thường nhân là Đức không có nguồn năng lượng nên yếu và cục bộ. Người tu mà chịu đem Đạo cứu Đời là khi họ huân tập lòng Từ Bi không ngừng

nghỉ. Lòng Từ có rồi, họ âm thầm cứu đời mà Đời không ai biết. Có khi họ thị hiện Đạo Đức cứu Đời có điều kiện như qua nạn tai.

Chúng sanh giác ngộ mà theo đường lành, không sanh tâm phỉ báng Đạo Pháp, không theo Tà giáo…

Ta đã biết : Dương thạnh tắc sanh- Âm thạnh tắc tử. Cho nên sự sống của vạn loại là nguồn Dương. Nếu nguồn Dương này để nó bé

nhỏ hơn Âm thì nạn kiếp đương nhiên xuất hiện. Âm càng thạnh, càng cao thì nạn kiếp càng khốc liệt.

Page 104: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

104

Tại thế gian ta đây, chúng sanh khi mang cái thân trọng trược rồi lại sống trong một môi trường do Âm-Dương chuyển hóa, nên sự an bình ổn định không hề có mà khổ trùng trùng.

Một xã hội rất cần Đạo Đức mà tồn tại. Nhưng do vô minh, nhân loại không coi Đạo Đức là nhu cầu thiết yếu cho cơ cuộc sống mà lại trọng vật chất và đầu tư hết cuộc sống cho Âm chất để đến đỉnh của Âm là cơ tận diệt đương đại hôm nay vậy.

- Mọi Hành tinh nào có sự sống đều coi Đạo Đức (Dương) là nhu cầu tối trọng cần phát huy và gìn giữ.

- Mọi Quốc gia cần biết Đạo Đức là động cơ đầu tàu cho sự bình ổn kinh tế, chánh trị, thiên tai. Đất Nước nên luôn luôn đặt Đạo Đức vào hàng đầu của Quốc sách và đời đời liên tục gìn giữ chẳng dám xa lìa. Lãnh Đạo quốc gia phải là Chân Nhân mới chấp nhận điều này.

- Mỗi cá nhân tự phấn đấu tạo cho chính mình một tập quán sống tích chứa Dương Khí từ Thân đến Tâm và gìn giữ làm cho Đạo Đức bản thân càng sống càng cao thì còn lo chi đến không thành Tiên Phật được.

Ngày hôm nay, kỷ nguyên Hạ này, tại hành tinh chúng sanh, các công trình vật chất văn minh đến cực độ của vật chất rồi, toàn Âm rồi. Song song văn minh Âm phần này là khổ nạn tập thể khủng khiếp đến đổi con người coi sự giết người tập thể là nhu cầu thiết yếu và con người đang tranh thủ làm như vậy. Ôi !

Trời lập Cơ Sanh hóa là sự sống Trời tạo. Nay vì không Đạo Đức mà hại Cơ Sanh hóa của Trời. Trời đến để cứu khổ và mở đạo dạy Đời. Chúng sanh không nghe, còn tìm cách giết Cha Trời, diệt Đạo.

Ôi ! Khủng khiếp cho cái cảnh loài người mất Đạo Đức. Và cuối cùng hôm nay, tại kỷ nguyên này không còn ai có thể cứu vãn nổi bằng

cách xua tan hết Âm Khí có từ ngoại Thiên. Âm Khí dày đặc ở thân tâm mỗi chúng sanh, chỉ còn đứng nhìn chúng sanh bị Âm Khí tiêu diệt rất thảm khốc, đa phương và liên tục.

Đức Thượng Đế đã lâm phàm nhưng nhân loại chỉ nghĩ mình là hay trọng nên có bao giờ thấy được gì đâu. Sống là chờ họa đến và kêu Trời lần cuối!

Cuộc sống trong Tam Giới chưa siêu xuất cần và rất cần Đạo Đức mặc dầu Đạo từ Trung Giới trở lên cũng Đạo cao rồi, nhưng Đạo cao bấy nhiêu, Đức rộng cỡ nào cũng không đáp ứng Đức hóa sanh Chơn Tánh !

Tóm lại : Đạo là nguồn năng lượng của Chơn Tánh. Đức là niệm Pháp Đạo sanh. Hà Đồ Âm-Dương phát khởi phò trợ đắc lực, hữu hiệu cho Cơ Sanh hóa từ cõi

Tam Thiên đến một cá thể con người, Địa cầu, Quốc gia, Quân Vương đều cần. Đạo Đức là lẽ sống trường dưỡng liên tục tại mỗi thời đại. Đạo Đức là nguồn Dương Lực có khả năng tiêu diệt Âm Khí, kể cả nạn kiếp,

thiên tai.

Page 105: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

105

B- CHIẾU MINH LẬP ĐỨC- DỤNG ĐẠO CỨU ĐỜI Linh Căn Chiếu Minh sau 6 năm tu luyện Đạo đã hanh thông. Hà Đồ thuần

chuyển. Người Chiếu Minh ta có thể ví như những cột entel thu sóng từ của Trời Phật Chư Thánh chúng Tam Giới. Thiên-Địa-Nhân vào giai đoạn hợp nhất Tam Tài. Người Chiếu Minh là cơ quan tiếp chuyển Dương Khí Thầy và Chư Phật cho giáng hạ để tá trợ Dương sanh.

Sự năng chuyển Pháp luân của Chiếu Minh, sự hội tụ đầy đủ Nguyên căn là năng lượng để bảo vệ sự sống của Hành tinh đó.

Người Chiếu Minh một dạ kiên định theo Thầy quy nguyên. Mọi thứ trần gian là huyễn giả. Lòng Từ Bi huân tập đến vô lượng Từ Bi, Hỷ Xả.

Trong lúc đang tu, các kiếp nạn của chúng sanh trùng trùng, ta biết nạn ấy do nhân sanh nhưng lòng từ thương yêu không biện phân thiện ác, nhân duyên, không danh, không lợi quyền mà diệu ứng cứu khổ độ sanh tiêu trừ ác Đạo.

Khi Quốc sự trắc biến, thiên tai, Chiếu Minh hợp cầu Thiện Đức. Nhơn Đức hiệp thống loại trừ Âm Khí, bảo vệ chúng sanh, xả tắc.

Người Chiếu Minh khi còn mang xác phàm cần lập Đức để tạ ơn Tạo Hóa đã dày công hóa độ mình Đắc Đạo và bố Đức, thi Ân thầm lặng nhằm trả nợ Tứ Ân.

Nhớ nương lấy Đạo Pháp siêng tu, năng luyện và chớ quên Cơ Sanh hóa quanh

ta là của Thầy. Tất cả là anh em ta, là đồng tánh với ta, nhớ tế độ và không bỏ rơi. Trong sát-na lập Đức ta nên nhớ câu : “Pháp siêu quần Thánh linh mà thị hiện Vô Vi thần tốc ” để cứu khổ vậy”. Linh căn ẩn tu còn ở lộn chung với đời, tức nhiên phải gặp các tình huống tiêu

cực trong xã hội. Ta phải hỗ trợ sự sống bằng những Tuệ Đức ổn định, không làm đỗ vở cho tình huống xấu thêm. Còn những tình huống rộng thời gian thì ta nên dùng Thiền định để thấy rõ lối cứu cánh mà hành sự cho hợp Đạo.

IV- THIÊN NHẤT SANH THỦY (Bài 37)

Âm-Dương chuyển động sanh Ngôi Độc Tôn là Thái Cực, cũng là nguyên lý

“Thiên Nhất sanh Thủy”, để rồi từ chỗ Thượng vị cao vọi này có một Bát Quái Đồ Thiên mà Thái Cực là Trung Ương của Đồ Thiên vô tướng, vô hình.

Đức Thái Cực lập Tòa Đại Đạo cũng phải tách Thần Quang lập lý trình Đại Đạo, gọi là THIÊN NHẤT SANH THỦY. Có nghĩa là thành lập tại mặt bằng của Tiên Thiên Khí một Đồ Thiên Quái Đồ mà Trung Ương Mồ Thổ là Thái Thượng Đạo Tổ.

Từ vị trí Tam Thanh, nguyên lý tách xuống Trung tâm Trục Thái Cực, một Đồ Thiên lập thành Ngũ Hành (tách chất trong Khí Hư Vô).

Ngũ Hành là năng lượng chính của Trục Thái Cực.

Page 106: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

106

Lý trình từ Trục Thái Cực dưới dạng Thần Quang Dương khí hỗn độn. Tánh Lý trình cũng gọi là Thiên Nhất sanh Thủy cho ra mỗi Ngân Hà.

Mỗi Ngân Hà là một Đồ Thiên. Đồ Thiên của Thiên Hà tế phân tách thể từ Thần khí Ngân Hà. Theo lý trình truyền truyền hạ này mà Đồ Thiên tách thể hình thành đồ Thiên

Quái Đồ của tỷ tỷ Thiên Hà, rồi Thái Dương Hệ đến Hành tinh. Thậm chí chỉ một việc khác như Thuyết tái tạo, tiêu diệt cũng có Quái Đồ làm

việc đó. Đến kỷ nguyên hôm nay, Thầy hạ Sắc Chiếu quy nguyên Chơn Tánh và Tam

Giáo cũng cái đặt vào Máy Thiên cơ chuyển vận. Thầy có thể bất tương Âm Dương toàn Càn Khôn một thời gian dài mà Quả Càn

Khôn vẫn ổn định bình thường. Vì sao được vậy ? Võ trụ tuy lớn nhưng ở thể vô sanh nên Quả Càn Khôn của Thầy vẫn bình ổn

chuyển dịch bình thường trong nguyên lý dịch chuyển trong Hư Không. Không năng lượng thì vật thể chuyển động chậm và không đủ lực xoay tròn.

Thầy hay dùng cách chủ động Âm-Dương để tránh đảo lộn trong Trung tâm Đại Đạo hoặc ở Hành tinh có sanh hóa . Nếu có Cơ Sanh hóa mà có hiện tượng các Hành tinh đến gần nhau, chạm nhau, thầy cũng bất tương Âm Dương để chỉnh sửa lý trình cũng bằng Âm-Dương.

Thiên Nhất sanh Thủy là Cơ Pháp Hóa sanh- Hườn sanh trong Cao Đài Đại Đạo. Nó từ trong nguồn Đạo Thầy ứng hóa, tách chia Thần-Khí cho nhu cầu công trình có các khâu, các cấp, các hạn mục ở tầm cao trong Trục Thái Cực.

Thần-Khí riu riu mà Thiên cơ thì ào ạt. Công trường thì rầm rộ. Rồi dần dần Đồ

Thư ổn định tuần hoàn bằng một Cơ Pháp Vô Vi. Chơn Cơ cả một Càn Khôn Đại Đạo của Thầy tự động chuyển hóa xây dựng bằng lý trình siêu văn minh là Vô Vi Pháp Giới. Pháp Vô Vi ẩn im trong Hư Vô, hòa quyện Hư Vô. Vô Vi chuyển hóa công trình tuần hoàn Vô Vi Chơn Pháp.

Đó là trong công trường Đại Tạo. Còn trong mỗi Nguyên căn trong Hành tinh này ? Đây là lúc Địa cầu đang vào Pháp ổn định hườn nguyên. Đó là Cơ Thiên do

Thầy chủ vận Nguyên căn, Tam Giáo. Mỗi thứ các cái tổng thể thấy tiến mà thực thì lùi. Pháp Hữu Vi bị diệt dần.

Huyền vi từ từ ứng lộ. Nguyên căn Đại Đạo với Chơn Đạo Cao Đài, Tạo Hóa chuyển vận chỉ có một cách Độc Tôn. Một Pháp giới hườn công Vô vi ngược chiều Đại Đạo. Cũng từ Thiên Nhất sanh Thủy, Khí bị cuộn vào chuyển hóa Vô Vi, đưa Ngũ Hành hoàn Tam Ngũ, vọt đến Tam Thanh nhận Vô Vi Chơn Pháp mà ra ngoại Càn Khôn.

Do đồng Chơn Pháp với Đại Đạo, Chiếu Minh Chơn Nguyên là nguồn năng lượng, là điểm tiếp truyền tá trợ Cơ Sanh thay Thầy chuyển Pháp Vô Vi để bình ổn Hành tinh, quy nguyên Tam Giáo. Đồng thời chuyển pháp luân xa, đoạn lìa hấp lực

Page 107: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

107

Địa cầu tác động nhơn than bằng Đồ Thiên nghịch vận : Xuất ngoại Càn Khôn, quy nguyên Đại Ngã.

Chơn Pháp Vô Vi chuyển vận Càn Khôn nhẹ nhàng như thuyền thuận gió, như cho liệng êm. Trong dòng khí nóng, Hư Không và Chơn Pháp hòa quyện nhau.

Người Chiếu Minh lấy Pháp luân chuyển lập. Kỳ thật, Cao Đài Đại Đạo đã áp tải quy nguyên đoạn đứt trú thân trần tục, bào ảnh giả pháp mà xuất ngoài Càn Khôn phục nguyên Thiên Tánh, minh hiệp Chơn Khí Hư Vô, đời đời an lạc trong thinh thinh Đại Ngã Vô Vi Pháp Giới.

Quốc Độ Chiếu Minh vô cùng, vô tận, là chân không Vô Cực. Càn Khôn võ trụ lá Pháp dụng Sắc Không : Thần hiệp Khí.

Càn Khôn là mặt phẳng Thần Khí kích tương. Pháp hữu tướng trải ra Hư Không, Khí nương Pháp ứng sanh, như muôn song ứng lên trùng trùng chỉ từ một thứ là nước.

Thần Khí phối trộn, công trường thanh trược hoát khai. Đại Đạo chủ vận là Thần-Khí. Nhơn Đạo chủ vận cũng Thần-Khí. CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO CHIẾU MINH TAM THANH VÔ VI đồng chủ vận Thần

Khí, đồng Pháp chuyển là hườn nguyên. Pháp luân tín đồ Chiếu Minh tức Hà Đồ người Chiếu Minh với Hà Đồ Đại Đạo

có một cấp chuyển. Do đó khi khế hợp Đại Đạo, Đạo Mạch Tiên Nhân tự lộ đồng hành quán triệt Càn Khôn Vô Vi Pháp Giới.

Đạo mầu đồng chuyển, Dịch Lý đồng phô diệu hiệp vô hữu, tán thán Công Đức Đại Tạo –Đại Mãn Càn Khôn, kíp hườn Dịch Lý, đoạn dứt luân hồi, Vạn Pháp quy Ngũ hườn sanh, hườn nguyên Đại Ngã, chứng đắc Vô Vi Chơn Pháp tự tại thinh thinh Đại Ngã.

NAM MÔ HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN.

V- DỰ ÁN PHÁC THẢO QUẢ CÀN KHÔN (Bài 38)

Quả Càn Khôn Đại Từ Phụ dạy rất khó thi công. Cả trăm năm nay không thể nên cứ tạm để trôi qua. Từ Tòa Thánh đến Tịnh Thất, Quả Càn Khôn là nguyên lý Đại Đạo. Thầy muốn cho nhân loại thấy rõ Đại Đạo, mà chúng sanh đang có cấu trúc ở ngay trong đó. Hình Đại Đạo tại Địa cầu chưa hoàn chỉnh vì khó thi công hình thể Quả Càn Khôn. Triệt thấu từ chân lý tiền khai sinh Đại Càn Khôn đến cấu trúc trong, ngoài, trên, dưới Chân Lý Dịch Hóa gần như tỏ rõ nhưng triển khai bằng vật chất thật khó vô cùng.

Nhân loại cứ chờ đợi một kỷ nguyên nào đó có nền công nghiệp cao với nhiên liệu trong suốt như pha lê, để công trình Quả Càn Khôn sẽ được thi công cho đúng lý, đúng hình Đại Đạo. Đặt vào chỗ trang trọng trong Bát Quái Đồ Thiên : Chân Lý Nhất Nguyên khai sinh ra Càn Khôn Đại Đạo. Thật là một việc làm, một đề án mà nhân loại chưa đủ khả năng thi công.

Page 108: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

108

Tôi nay xin đưa ra một mô hình Dự Thảo để nghiên cứu trong Đại Đạo, thử xem mô hình có thể khả thi ?

Ta xác định kích cỡ Quả Càn Khôn tại vị trí lấp đặt cho hợp với thông số diện tích và hài hòa tại Bát Quái Đồ Thiên.

Xác định chiều cao rộng của Bát Quái Đồ Thiên với phần không gian để đưa Quả Càn Khôn vào vị trí.

Nếu cần thiết, kỹ hơn nên hình thành một mô hình thông số cao rộng rồi đưa mô hình vào. Nhận xét tổng thể sự hài hòa đã đạt trong không gian hoàn mỹ. Bấy giờ mới bước sang giai đoạn thi công.

Các thông số của Quả Càn Khôn được xác lập rồi chia Quả Càn Khôn làm 12 múi từ cao xuống thấp :

12 múi gồm có:

1.Tý 7.Ngọ 2.Sửu 8.Mùi

3.Dần 9.Thân 4.Mão 10.Dậu 5.Thìn 11.Tuất

6.Tỵ 12. Hợi

Mô hình Quả Càn Khôn được phân bố tế phân ra làm 12 múi. Trong 12 múi này mang một cấu trúc hình thể của Đại Đạo. Cụ thể là :

- Thập Tự Tam Thanh. - Tam Giới – Tứ Đại Bộ Châu.

Trong đó trung tâm là Thập tự Tam Thanh, là một Cột trống rổng hình ống. Ống Trục Thái Cực có kích cỡ khá lớn, có đường kính từ 5 tấc trở lên, cũng chia

đều Ống Trục làm 12 lá theo chiều đứng.

+12 múi từ Tý đến Hợi. Mỗi múi phía trong dính liền 1 lá. Trong lá này có thiết kế các chất cài đặt để kết dính với múi liền kề hai bên. Đồng thời Tâm mỗi múi từ lá Trục Thái Cực có cài đặt sẵn các móc để kết dính với một cây cột bằng chất bền trong suốt. Cột có đường kính bằng Ống Trục Thái Cực. Lòng cột rổng để cài đặt hệ thống đèn.

+ Cây cột để Quả Càn Khôn an vị bằng chất liệu trong suốt trên phải kết dính với nóc Bát Quái. Dưới phải lập nền chống lún sụp, chống gãy đỗ. Nếu được cột rổng lòng để ta đặt Tâm Đăng vào giữa cột. Nếu ở ngoài nhìn vào dường như không có cột giữa vì Quả Càn Khôn lớn nặng. Quả Càn Khôn là một cấu trúc rổng, mang hình thể Đất Trời gồm :

- Thượng tầng : Sao Bắc Đẩu rồi Tam Thanh-Trục Thái Cực (cây cột)- Ngân Hà- Thiên Hà- Thái Dương Hệ - Hành tinh- Vệ tinh và một hệ thống màu sắc từ Tâm Trục ra chung quanh bên ngoài Quả Càn Khôn.

Page 109: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

109

- Thiết kế hệ thống chung nhưng khi thi công đúc đổ chia hệ thống ra làm 12 múi bằng nhau, chất liệu bằng nhiên liệu trong suốt.

- Hình thể Quả Càn Khôn có tổng hình tròn cao, hơi phình ở giữa. Khi kết dính toàn quả lên hệ thống cột Trục Thái Cực rồi thì do bên ngoài vỏ Quả Càn Khôn ta trước đó để trống nhằm vừa đúng với thật tế ngoài Hư Không.

Quả Càn Khôn tiếp giáp với Hư Không Vô Cực, không có giới hạn. Nếu được vậy ta để lấp đặt thay thế, sửa chữa hệ thống bên trong lòng (Là Đèn, cả một hệ thống đèn màu, hình thể của Đất Trời).

- Ở ngoài nhìn vào phải đạt : Quả Càn Khôn có tổng hình bầu dục, bốn phía rổng rang, bên trong có một cầu

trúc Thiên văn phức tạp, sắc màu huyền ảo, lập hệ thống Âm-Dương hóa công trình.

Tính toán 12 múi đeo vào Trục Thái Cực (cột giữ) bằng bạc đạn hoặc chất liệu chắc bền để kích điện toàn Quả Càn Khôn quay chuyển chầm chậm quanh Trục.

Ta tính toán trước phần phía dưới Cột có Thiên Bàn hoặc thứ khác che khuất phần dưới.

Phần trên mặt Quả Càn Khôn đến nóc Bát Quái cũng tìm cách che giấu Đầu Trục, để khi nhìn vào thấy Quả Càn Khôn như giữa Hư Không dịch chuyển chầm chậm trong lòng ẩn chứa một cơ mầu Tạo Hóa.

Dùng Đồ họa vi tính thiết kế từng đơn vị múi, đủ 12 múi (số riêng của Thầy).

12 múi có cấu trúc chung như sau :

+ Màu Âm : Dưới nửa Quả Càn Khôn trở xuống. + Màu Dương : nửa Quả Càn Khôn trở lên, sáng trắng. Âm Dương .

Chia Quả Càn Khôn ra làm 4 Châu :

- Bắc Khảm cung : Màu hơi huyền (Bắc Cưu Lưu Châu). - Nam Thiên Bộ Châu (số 9) đối nhau với múi Khảm : Màu tối đỏ bằm. - Đông Thắng Thần Châu (số 3), cung Chấn Chánh Đông : Màu xanh. - Tây Ngưu Hóa Châu : cung Đoài, màu trắng.

Từ Trung tâm ta vẽ 4 nhánh (thiết kế để đèn) màu vàng đúc tỏa từ Trung tâm Trục ra đến 4 múi Tứ Quí (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Ta chia đều coi trong kế hoạch Quả Càn Khôn trong, ngoài tạo được bao nhiêu

dãy Ngân Hà từ trên xuống và cả trong lẫn ngoài. Trong múi dải Ngân Hà vẽ nhiều Đĩa Thiên Hà (coi lại Ngân Hà- Thiên Hà-

Thái Dương Hệ - Hành tinh- Vệ tinh). Khi đưa 12 múi ôm gắn vào cột Trục, các dải Ngân Hà, Thiên Hà cũng đồng,

không chênh lệch cấu trúc mà sai nguyên lý. Nếu ta làm sai, treo trật thì khi đốt cái Đèn giữa (thay lời cầu nguyện), họa sẽ

đến cho Cơ Đạo càng nhanh, vì thế phải ý thức cao.

Page 110: DỊCH LÝ ĐẠI ĐẠO Phần cuối- Chương 4,5,6,7,8antruong.free.fr/Dich-ly-cao-dai-CM-2.pdf · 2016. 7. 25. · Trược. Ở đây dải Ngân Hà cũng chịu chung và

110

Ta huy động tài chánh, mướn kỹ nghệ đúc cho ta hai khuông để sử dụng đúc Quả Càn Khôn :

. Khuông thứ nhất (1) lớn hơn, dùng ở Tòa Thánh.

. Khuông thứ hai (2) tầm nhỏ đôi chút dùng ở Tịnh trường.

Tuyệt đối không làm quả Càn Khôn có Tòa Sen nâng dưới. Chỉ thấy Quả Càn Khôn xoay trong Hư Không các phía là đạt.

Nếu làm khuông đổ Quả Càn Khôn, một khuông có 12 múi, mỗi múi có cấu trúc bên trong khác nhau nhưng cùng mặt phẳng.

Nếu vậy mỗi khuông gồm 12 khuông múi (khuông đổ ra múi). Nếu cấu trúc 12 múi y nhau về múi thì chỉ cần 2 múi khuông mà thôi. Khi tạo phần khuông chánh rồi, các phần phụ nội thất ta làm rời rồi lắp đặt sau . Tổng quát Quả Càn Khôn được thiết kế theo mô hình gồm nhiều thành phần ráp

lại, độ chính xác cao để khó phân biệt là do lắp ráp. Điều này không sai phạm điều chi cho Cơ Tạo. Đúc một Quả Đất Trời dầu cho

Tiên Phật cũng khó thi công huống chi phàm nhân ở Nam Thiện Bộ Châu. Phương án đúc từng phần cơ may nhân loại có thể dễ thực hiện. Nhờ người rành về Đồ họa vi tính, với không gian đa chiều để thiết kế Đồ hình

cho công trình. Mong rằng Chư quân trong Đại Đạo tích cực công quả dâng Thầy công trình

Quả Càn Khôn, được đúc theo sát Dịch lý (Thiên văn). Thật là Đại Công Đức! Một lần nữa tôi xin nhắc rằng mỗi dãy Ngân Hà, Thiên Hà…cách nhau nhiều tỷ

năm ánh sáng. Quả Càn Khôn nằm trọn trong Pháp Giới hữu tướng liên tục . Thân hình Quả Càn Khôn là vật chất nên cũng sanh diệt liên tục. Ta đừng cho rằng công trình làm múi Quả Càn Khôn là sái Chơn Lý. Chớ nghĩ sai như vậy. Nhớ đúc Quả Càn Khôn cho đúng theo Chơn Lý.