kiẾn trÚc nhÀ cỘng ĐỒng truyỀn thỐng dÂn tỘc ba na …
TRANSCRIPT
1
KIẾN TRÚC NHÀ CỘNG ĐỒNG TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC BA NA
TẠI THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM - THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP BẢO TỒN
ARCHITECTURE OF TRADITIONAL COMMUNITY HOUSE OF BA
NA ETHNIC COMMUNITIES IN KON TUM CITY, KON TUM
PROVINCE - SITUATION AND PRESERVATION SOLUTIONS
ThS. KTS Nguyễn Phong Cảnh
TS. KTS Trương Hoàng Phương
Khoa Kiến trúc, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Tóm tắt
Nhà cộng đồng truyền thống các dân tộc thiểu số ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum hay Nhà
Rông (theo cách gọi của đồng bào dân tộc địa phương) là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng
bào dân tộc trong đó có dân tộc Ba Na trên địa bàn tỉnh Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên Việt Nam
nói chung. Đối với các làng đồng bào dân tộc Ba Na ở tỉnh Kon Tum thì sự tồn tại của làng gắn với
nhà Rông là mối quan hệ không thể tách rời. Hiện nay nhà Rông với kiến trúc truyền thống của nó
đang dần bị mai một, thay vào đó là tình trạng bê tông hóa, thay đổi hình dạng kiến trúc do nhiều
nguyên nhân đang dần phổ biến. Cần có những khảo sát và nghiên cứu cụ thể về thực trạng cũng như
quá trình biến đổi của kiến trúc nhà Rông nhằm tìm ra nguyên nhân từ đó đề suất giải pháp nhằm bảo
tồn thích ứng đảm bảo cho giá trị kiến trúc cộng đồng truyền thống này không bị suy giảm.
Từ khóa: nhà cộng đồng truyền thống, nhà Rông, dân tộc Ba Na, tình trạng bê tông hóa.
Abstract
Traditional ethnic community houses in Kon Tum City, Kon Tum Province are characterized by
the Rong house. The Rong house is a place of community cultural activities of ethnic minorities
including the Ba Na ethnic group in Kon Tum province in particular and the Central Highlands of
Vietnam in general. For Ba Na ethnic minority villages in Kon Tum province, the existence of the
village associated with the Rong house is an inseparable relationship. Nowadays, the Rong house with
its traditional architecture is gradually being lost. Instead, the state of concreting and changing the
architectural form due to many reasons are gradually popularizing. It is necessary to have specific
surveys and studies on the current situation of the Rong house and the process of change of the Rong
house architecture to find the cause, thereby proposing solutions to conserve adaptation to ensure
these traditional community house architecture values not being diminished.
Key words: traditional community house, Rong house, Ba Na ethnic group, concreting status.
2
Giới thiệu
Nhà cộng đồng truyền thống các dân tộc ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum hay còn
gọi là Nhà Rông là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào dân tộc Ba Na trên địa bàn
thành phố Kon Tum nói riêng và tỉnh Kon Tum nói chung. Đối với các làng đồng bào dân tộc
thiểu số ở Kon Tum thì sự tồn tại của làng gắn với nhà Rông là mối quan hệ không thể tách
rời. Nhà Rông là linh hồn, là phần “thiêng” của làng dân tộc ở nơi đây. Nhà Rông là một kiểu
nhà sàn đặc trưng, đây là ngôi nhà cộng đồng, như Đình làng người Kinh, dùng làm nơi tụ
họp, trao đổi, thảo luận của dân làng trong các buôn làng Tây Nguyên, cũng là nơi đón khách
(theo phong tục người Ba Na), dù khách riêng của gia đình hay chung của làng. Không có số
liệu chính xác về thời điểm xuất hiện nhà Rông nhưng khi mới thành lập làng những người
trong tộc thường xây dựng cho mình một ngôi nhà chung. Họ gọi ngôi nhà chung này là
Hnam Rông, Jơng hoặc là Jông, đây là nơi diễn ra các lễ hội, các sự kiện trọng đại của buôn
làng. Nhà Rông được xây dựng ở trung tâm của làng, một nơi thoáng, rộng rãi có thể chứa số
lượng người nhiều gấp 2-3 lần số lượng người trong làng, được hội đồng già làng chọn từ
trước khi lập làng. Tùy vào địa hình, điều kiện kinh tế và tài hoa của những người đứng đầu
mỗi làng mà nhà Rông được dựng lên to hay nhỏ, cao hay thấp và mang tính thẩm mỹ riêng
của mỗi làng, mỗi vùng. Nhà Rông chỉ có ở những buôn làng người dân tộc như Gia Rai, Ba
Na...ở phía Bắc Tây Nguyên, đặc biệt ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum.
Nội dung
1. Nét đặc trưng kiến trúc nhà Rông truyền thống
Nhà Rông của mỗi dân tộc đều có những nét riêng trong kiến trúc, tạo dáng, trang trí
hoa văn. Nhìn chung nhà Rông là ngôi nhà có kiến trúc cao và to hơn nhiều so với nhà bình
thường. Có những ngôi nhà cao tới 18m, với đặc điểm là mái nhọn xuôi dốc hình lưỡi búa
vươn lên bầu trời với một dáng vẻ mạnh mẽ. Nhà Rông được xây dựng chủ yếu bằng các vật
liệu lấy từ núi rừng Tây Nguyên như cỏ tranh, tre, gỗ, lồ ô...theo kết cấu kiến trúc nhà sàn
nhưng có dáng vẻ cao thanh thoát với tỷ lệ hài hòa. Nhà gồm hai mái chính và hai mái phụ
hình tam giác cân và nhỏ. Khung mái nhà được kết cấu từ nhiều loại cây dài được dựng thẳng
đứng gọi là pơjô (rùi). Mái nhọn lợp bằng lá cỏ tranh phơi kỹ cho đến khi khô vàng, sau đó
làm thành tấm có độ dày 3cm cột vào những hàng cây mè trên khung mái. Gần đến đỉnh được
đan nẹp có hoa văn chạy song song với đỉnh tạo sự bền chặt của mái. Khung nhà Rông rất cao
chịu lực bởi 8 cột to làm bằng gỗ quý, thẳng, chắc, thường là gỗ trắc, sến, lim,.... Các cột liên
kết với nhau theo thể thức cột vì kèo. Trên những vì kèo được chạm khắc, trang trí những hoa
văn có màu sắc rực rỡ mang tính tín ngưỡng tôn giáo, những sự tích huyền thoại của dũng sĩ
3
thuở xưa, những thú vật được cách điệu, những hoa văn thể hiện cảnh sinh hoạt gần gũi với
thiên nhiên, cuộc sống buôn làng.
Nổi bật trong trang trí nhà Rông là hình ảnh thần mặt trời chói sáng. Ngoài ra, bên trong
nhà còn treo trống, cung tên và giáo mác, sừng trâu, xương hàm, xương sọ những thú rừng đã
săn bắt được… Khi có lễ hội, ở giữa nhà còn dựng lên một cây cột cao (nơi cột rượu thiêng
của lễ) được chạm khắc tinh vi hình mặt trời (s’drang mặt ‘năr), sao tám cánh (sơ nglong
bloong tar), hình thoi… nối liền là hàng cây cột vào các cột thấp hơn chạy theo chiều dài của
nhà Rông.
Sàn nhà Rông được lắp ghép bằng những tấm được chẻ bằng lồ ô, nứa hoặc tấm ván gỗ.
Trên nền sàn, ở hai đầu của nhà Rông đặt hai bếp lửa vừa thuận tiện trong việc tổ chức lễ hội,
vừa sưởi ấm cho các chàng trai vào những đêm đông giá rét. Phên vách được đan bằng tre
nứa, lồ ô tạo nên một dải hoa văn rất sinh động. Cửa chính được mở ở gian chính giữa của
một vách chính, cửa phụ mở ở vách phụ của đầu hồi phía bên phải cửa chính. Trước cửa
chính và cửa phụ buôn làng làm thêm hiên (pra) là nơi dừng chân nghỉ ngơi chờ đợi khi có
nhiều người ra vào nhà hay lên xuống cầu thang, thông thường cầu thang được chặt đẽo 7
hoặc 9 bậc.
Nhà Rông thuộc khu vực bắc Tây Nguyên khá đặc sắc và đa dạng. Tùy theo từng dân
tộc khác nhau mà Nhà Rông được xây dựng với hình dáng khác nhau và có nhiều tên gọi khác
nhau. Nhà Rông nhỏ và thấp thường là của người Giẻ Triêng, còn nhà Rông của người Xê
Ðăng lại vút cao mạnh mẽ. Nhà Rông của người Ba Na thì mềm mại nhưng vẫn uy nghi. Nhà
Rông của người Gia Rai có kiến trúc thanh thoát như lưỡi rìu dựng ngược lên trời.
2. Chức năng nhà Rông
Nhà Rông có chức năng giống ngôi Đình của người Việt, nhà Rông là nơi diễn ra toàn
bộ sinh hoạt cộng đồng của dân tộc thiểu số Tây Nguyên, là trụ sở của bộ máy quản trị buôn
làng, nơi sinh hoạt tôn giáo , tín ngưỡng… là nơi thể hiện các lễ hội tâm linh cộng đồng và là
nơi các nghệ nhân già truyền đạt lại cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa truyền thống, là nơi
lưu giữ các hiện vật truyền thống: cồng, chiêng, trống , vũ khí, các đầu con vật được hiến sinh
trong các ngày lễ và là nơi trẻ em từ tấm bé đã được quay quần quanh bếp lửa nghe người già
kể khan, nơi người lớn được tụ tập hằng đêm nói cho nhau nghe những câu chuyện của núi
rừng. Nhà Rông là nơi tiến hành các lễ cúng chung thường kỳ và không thường kỳ nhằm các
mục đích dân an vật thịnh, cầu mùa màng tươi tốt như cúng mừng lúa mới, cúng mừng bắc
máng nước, cúng cầu mưa, cúng mừng chiến sĩ, cúng lập làng mới, cúng lên nhà Rông...
Nhà Rông của người Tây Nguyên đóng vai trò đa chức năng trong đó có chức năng về
tín ngưỡng tôn giáo. Trong tín ngưỡng của người Tây Nguyên, nhà Rông là chỗ ở của vị thần
4
bản mệnh của cộng đồng, vị thần chung được coi là linh thiêng nhất của làng. Phổ biến ở các
dân tộc tục thờ bản mệnh của làng trong một vật thiêng, thường là hòn đá đặc biệt đặt trong
túi vải treo trong nhà Rông. Nhà Rông đẹp chắc chắn sẽ được các vị thần phù hộ. Nhà Rông
được coi là linh hồn của làng, nơi hội tụ khí thiêng của trời đất, sông núi, là nơi lưu giữ các
giá trị thiêng liêng của buôn làng. Buôn làng có nhà Rông là như được tiếp thêm sức sống.
3. Việc xây dựng nhà Rông
Nhà Rông thường được các Già làng và những người lớn tuổi trong làng lựa chọn sao
cho có vị trí quan trọng nhất, thường được chọn ở ngay chính giữa làng, bên cạnh những con
sông và được xây dựng đầu tiên. Sau đó, người dân mới dựng nhà ở xung quanh và mặt của
nhà thường hướng về phía Nhà Rông. Đây là kiến trúc làng cổ mà hiện nay rất ít làng còn lưu
giữ. Theo già làng A Xép - dân tộc Ba Na (làng Konktu, xã Đăkrơwa thành phố Kon Tum),
mỗi khi phải chuyển buôn đến một vùng đất khác hoặc do làng đông người quá không có đất
đủ sinh sống phải tách buôn thì già làng và mọi người đi tìm nơi mới, khi đã chọn được đất thì
tiến hành cất nhà Rông, nếu trong thời gian dựng không có biến cố gì xảy ra gây đổ hoặc
nguy hiểm đến tính mạng người nào thì coi như "Giàng đã đồng ý", lúc đó mới bầu già làng
mới và cho nhổ nhà dân đến dựng xung quanh. Làng Konktu của A Xép khi mới thành lập
cũng được xây dựng như vậy.
Hình 1. Cư dân bản địa Kon Tum trước đây, làng của người Ba Na năm 1947 ở
Kon Tum (nguồn: internet)
Để xây dựng một nhà Rông mới cần có cả một quá trình nhiều năm và phải huy động tất
cả người dân góp công sức để hoàn thành. Chính điều đó càng tạo nên sự kết nối cộng đồng
sâu sắc trong lòng người đồng bào dân tộc thiểu số.
4. Thực trạng nhà Rông trên toàn tỉnh Kon Tum
Tỉnh Kon Tum hiện có 445 nhà Rông truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số,
trong đó khoảng 77% giữ đúng nguyên mẫu cột gỗ, mái tranh, xung quanh tre nứa, còn lại
23% được xây dựng hiện đại hóa bằng các vật liệu bê tông, sắt, thép, mái lợp tôn.
5
Huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum có 35/38 nhà Rông đã bị tôn hóa, bê tông hóa. Ông Trần
Văn Tiên, Trưởng Phòng Văn hóa Thông tin huyện Sa Thầy cho biết, ngoài khó khăn trong
việc tìm kiếm nguyên liệu truyền thống, nhà Rông truyền thống rất dễ cháy, hư hỏng nên
người dân ở các thôn, làng trên địa bàn huyện thống nhất xây dựng nhà Rông theo kiểu bê
tông.
Hình 2. Nhà Rông thôn Klêch (trái) và nhà Rông thôn Kroong Klah (phải) tại thành phố Kon
Tum đã bị bê tông hóa và lợp tôn (nguồn:tác giả)
Hình 3. Nhà Rông thôn Konjơri (trái) và nhà Rông thôn Konktu (phải), xã Dakrơwa tại thành
phố Kon Tum vẫn còn giữ được nét đặc trưng về kiến trúc truyền thống (nguồn: tác giả)
Theo Ông A Dót làng Rắc, xã Ia Xiêr (huyện Sa Thầy) lúc trước mái nhà Rông truyền
thống là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả làng, là điểm tựa tinh thần khi làng có chuyện lớn, bé
nhưng nay nhìn nhà Rông bị bê tông hóa, người dân trong làng không còn gần gũi nhà Rông
như xưa, nên các lễ hội truyền thống và những sinh hoạt cộng đồng cũng dần mai một.
Từ năm 1999, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Kon Tum đã tiến hành khảo sát toàn
diện thực trạng Nhà Rông trên địa bàn toàn tỉnh; đồng thời tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh
ban hành chỉ thị 21 về việc khôi phục và xây dựng Nhà Rông truyền thống cho các làng đồng
bào dân tộc thiểu số. Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng được 575 Nhà Rông trên tổng số 588
làng đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 97,8%. Việc khôi phục và xây dựng mới Nhà
Rông ở các thôn, làng phần lớn do nhân dân đóng góp (xây dựng mới được hỗ trợ từ 7-15
triệu đồng/cái, trong khi giá trị thực để xây dựng một Nhà Rông phải từ 200-800 triệu đồng).
6
Nhiều địa phương như huyện Kon Plông có 100% làng có Nhà Rông; huyện Đăk Tô có gần
98% số làng, thành phố Kon Tum có 96% số làng có Nhà Rông.
5. Tổng quan dân tộc Ba Na ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum
Người Ba Na (các tên gọi khác: Bahnar, Ba Na Dưới Núi, Ba Na Đông, Ba Na Tây, Ba
Na Trên Núi, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kde, A la công, Krăng,
Bơ Môn, Kpăng Công, Y Lăng) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Ba
Na cư trú chủ yếu ở cao nguyên trung phần Việt Nam. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2009, người Ba Na ở Việt Nam có dân số 227.716 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63
tỉnh, thành phố. Người Ba Na cư trú tập trung tại các tỉnh: Gia Lai (150.416 người, chiếm
11,8% dân số toàn tỉnh và 66,1% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Kon Tum (53.997
người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Phú Yên
(4.145 người), Bình Định (18.175 người, chiếm 8,0% tổng số người Ba Na tại Việt Nam),
Đắk Lắk (301 người), Bình Thuận (133 người). Người Ba Na có nhiều tên gọi khác nhau theo
nơi cư trú hay phong tục tập quán mỗi vùng.
Hình 4. Biểu đồ so sánh sô lượng các dân tộc tỉnh Kon Tum và thành phố Kon Tum năm 2018
(nguồn: Ban Dân tộc, tinh Kon Tum)
6. Thực trạng việc sử dụng nhà Rông dân tộc Ba Na tại thành phố Kon Tum
Thành phố Kon Tum hiện có 183 thôn, làng, tổ dân phố; trong đó có 62 làng đồng bào
dân tộc thiểu số. Đến nay, toàn thành phố hiện có 57 nhà Rông, trong đó có 56 nhà Rông của
56 làng đồng bào dân tộc thiểu số, đạt tỷ lệ 91,9%; 01 nhà Rông của xã Ia Chim. Còn 06 thôn,
làng chưa có nhà Rông hoặc có nhưng đã xuống cấp và bị cháy không còn sử dụng được.
Trong 57 nhà Rông, có 24 nhà Rông làm bằng nguyên vật liệu xây dựng truyền thống , 05 nhà
Rông làm bằng nguyên vật liệu xây dựng hiện đại, 28 nhà Rông làm bằng nguyên vật liệu xây
dựng truyền thống và hiện đại. (Báo cáo hiện trạng việc quản lý sử dụng nhà Rông tại các
thôn, làng trên địa bàn thành phố Kon Tum năm 2017)
010000200003000040000500006000070000
Xơ
-đăng
Ba-
na
Gié
-Tri
ên
g
Gia
-rai
Hrê
Brâ
u
Rơ
-măm
Kin
h
Mường
Nù
ng
Sán
Ch
ay
Sán
Dìu
Tày
Thái
Thổ
1 2 3 4 5 6 7 20 23 24 25 26 27 28 29
Tỉnh KonTum
TPKonTum
7
Hình 5. So sánh thực trạng nhà cộng đồng tại thành phố Kon Tum và huyện Nam Đông, tỉnh
Thừa Thiên Huế (nguồn: Phòng VHTT thành phố Kon Tum và TS. Trương Hoàng Phương)
Hình 6. Vị trí 14 nhà Rông Ba Na được chọn kháo sát tại thành phố Kon Tum và ngoại vi. Nhà
Rông truyền thống: chấm tròn màu đỏ và nhà Rông nửa truyền thống và hiện đại: chấm vuông màu lục
(1. Konhơgon cơtu; 2. Konrbang; 3. Konklor; 4. Konktu; 5. Konjơri; 6.Konklor 2; 7. Chư Hreng; 8.
Măng Laklah; 9. Klêch; 10. Kleng; 11. Sa Thầy; 12. Khúc Na; 13. Kroong Klah; 14. Konhơra cơtu)
(nguồn: tác giả)
Xã Ia Chim có 11 thôn, làng, trong đó có 9 thôn, làng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện
nay nhà Rông ở những làng này đều được tôn hóa, xi măng hóa. Theo Già A Láo, 88 tuổi ở
làng Plei Sar, xã Ia Chim: “Khi nhà Rông cũ bị hư, cả dân làng đều mong muốn được làm lại
nhà Rông truyền thống. Tuy nhiên, do việc tìm kiếm nguyên vật liệu quá khó khăn nên không
còn cách nào khác, dân làng phải đồng ý làm nhà Rông bằng xi măng, lợp mái tôn”.
Ông Hoàng Nguyên Chiến, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Ia Chim, thành phố Kon Tum
cho biết: "Trước đây, nhà Rông văn hóa xã được thiết kế và làm theo đúng mẫu truyền thống
với mái tranh, trụ, sàn, tường gỗ. Đến năm 2015, nhà Rông bị hư hỏng nhiều, bà con đã tập
trung làm lại. Mặc dù vẫn giữ đúng hình dáng truyền thống nhưng do không có các nguyên
8
vật liệu như gỗ, tranh nên bà con buộc phải đồng ý xây nhà Rông theo kiểu tường gạch, mái
tôn, trụ bêtông. Đây là ngôi nhà mang hình dáng nhà Rông chứ không còn là biểu tượng của
đại ngàn như nhà Rông truyền thống nữa vì nguyên vật liệu chính là gỗ, tranh không có nên
đành thay thế bằng xi măng, sắt thép”.
7. Sự biến đổi trong chức năng nhà Rông dân tộc Ba Na tại Kon Tum hiện nay
Thực tế cho thấy, trong nhà Rông hiện nay, nhiều làng đã treo ảnh, tượng Bác Hồ, cờ Tổ
quốc, Quốc hiệu. Nhiều làng còn treo nội qui, hương ước của làng tại nhà Rông để mọi người
đều có thể tiếp cận một cách dễ dàng. Bên cạnh việc sinh hoạt mang tính tín ngưỡng, cổ
truyền, tâm linh, thì hiện nay nhiều làng còn tổ chức các sinh hoạt với nhiều hình thức mới
như: tổ chức chào cờ đầu tuần, lễ mừng báo công, nơi phát động các phong trào lớn của các tổ
chức, đoàn thể… Nơi đây, các phong trào như "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa", phong trào xây dựng nông thôn mới… cũng phát triển. Bên cạnh đó, Nhà Rông được sử
dụng để hội họp, học tập quán triệt các chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Ðảng và Nhà
nước, đồng thời tổ chức các hoạt động văn hóa mới như thông tin lưu động, chiếu phim, biểu
diễn nghệ thuật, mít tin... do các cơ quan, đoàn thể tổ chức. Nếp sinh hoạt nhà Rông nói
chung ngày nay đã khác trước rất nhiều. Nếu như xưa kia, theo phong tục phổ biến ở nhiều
tộc người, nhà Rông như ngôi nhà dành cho đàn ông, phụ nữ hầu như không vào hoặc rất ít
khi vào nhà Rông thì nay ở các thôn làng nữ giới cũng thường xuyên đến nhà Rông. Các cuộc
họp thôn, các dịp liên hoan, sinh hoạt đoàn thể, phổ biến chế độ chính sách, vận động hay
phát động phong trào v.v.. đều tổ chức ở nhà Rông. Mọi người thường tụ họp hàng ngày ở
đây lúc rảnh rỗi chủ yếu để xem tivi, xem chương trình qua băng đĩa...Tập quán thanh thiếu
niên nam đến ngủ qua đêm ở nhà Rông cũng ngày một mất đi, không còn phổ biến và bắt
buộc như xưa. Những lễ cúng cộng đồng tại nhà Rông vẫn tiến hành cơ bản theo nếp cổ
truyền nhưng những kiên cử nặng nền khắc khe thì hầu như không còn nữa.
8. Sự biến đổi trong kiến trúc nhà Rông dân tộc Ba Na ở Kon Tum hiện nay
Một thời kỳ dài nhà Rông dân tộc Ba Na bị mai một trầm trọng. Trong hoàn cảnh chiến
tranh ác liệt suốt hàng chục năm, tiếp đến là công cuộc phát triển nông thôn và xây dựng nếp
sống mới triển khai mạnh mẽ sau giải phóng miền Nam năm (1975), nhà Rông đã chịu nhiều
tác động cùng với những đổi thay lớn chưa từng có. Từ chỗ xưa kia hầu như làng nào cũng có
nhà Rông, thậm chí những làng lớn của dân tộc Ba Na còn dựng hai nhà Rông, nhưng nay
nhiều làng không còn nhà Rông nữa. Kết quả khảo sát năm 1999 tại 625 làng ở tỉnh Kon Tum
cho hay: chỉ còn 265 làng có nhà Rông, thậm chí trong số 63 làng ở huyện Ngọc Hồi chỉ 6
làng có nhà Rông. Tới nay người Brâu vẫn chưa làm lại nhà Rông của mình. Những năm 80
trong thế kỷ trước, những nhà Rông ở Kon Tum phổ biến là đang ở tình trạng “tạm thời”. Do
9
đó mà khó có thể tìm được một nhà Rông hoàn chỉnh. Từ khoảng đầu những năm 90 trở đi, ở
Bắc Tây Nguyên, nhất là tỉnh Kon Tum, xuất hiện phong trào làm “nhà Rông văn hóa”, theo
sự chỉ đạo và định hướng của công tác văn hóa - thông tin, sự can thiệp của công tác định
canh định cư. Ngôi nhà Rông được dựng lên để làm trụ sở sinh hoạt, trung tâm thông tin và
phổ biến văn hóa mới tại thôn, xã, gọi là “nhà Rông văn hóa”. Cùng với phong trào đó, một số
làng cũng tự phục hồi nhà Rông. Việc phục hồi diễn ra theo 2 hướng: có sự tổ chức và đầu tư
nhà nước và do dân tự thực hiện. Từ năm 1999, chính quyền tỉnh Kon Tum đề ra chủ trương
duy trì và khôi phục nhà Rông truyền thống. Trong vùng người Cơ Tu ở Quảng Nam, từ năm
2000, việc dựng lại ngôi nhà chung tại các làng cũng được chính quyền khuyến khích. Do đó
phong trào làm nhà Rông ở hai nơi này tiến triển khá nhanh.
Nhìn chung nhà Rông dựng ở thời kỳ sau năm 1975 có nhiều biến đổi, nhất là ở Bắc Tây
Nguyên. Sự đổi khác không chỉ thấy phổ biến ở những “nhà Rông văn hóa”, mà cả ở một số
nhà Rông không thuộc diện này. Nhà Rông kiểu mới thường xuất hiện dưới dạng mái lợp tôn,
có khi lợp ngói hay phibroxi măng, sàn và vách thường làm bằng ván gỗ xẻ, có trường hợp
làm vách trát đất như nhà ở nông thôn người kinh trước đây, đã xuất hiện những nhà Rông có
cột, dầm bê tông cốt thép, lắp cửa nhôm kính. Ở nhiều làng nhà Rông mới thường thấp, nhỏ
chiều cao có khi không quá 10m. Sàn cũng thấp chỉ trên dưới 1,5m và diện tích chỉ khoảng
50m2 trở xuống; do đó không đủ vẻ bề thế uy nghi như nhà Rông xưa. Các quy cách về thang
lên xuống, về trổ cửa, bố trí sàn sân đã không còn chặt chẽ và rõ nét. Tại một số nơi gần đây
loại nhà Rông to lớn, lợp tôn múi màu đỏ xanh mọc lên nhiều. Nhà Rông cũ nhỏ hơn lợp bằng
tôn phẳng lại không còn được áp dụng nhiều nữa. Nhiều nơi thuê thợ người kinh dựng nhà
Rông khiến cho nhiều nhà giống nhau từ làng này sang làng khác, chỉ khác màu tôn và một
vài chi tiết nhỏ ở lan can. Một số doanh nghiệp , công ty tài trợ tiền làm nhà Rông cho dân
làng, nhưng lại quyết định luôn cả việc thiết kế, thi công, can thiệp vào hình thức dẫn đến méo
mó, biến dạng nhà Rông theo tư duy của nhà tài trợ.
Trang trí bên trong nhà Rông ngày nay thường cũng không đầy đủ, cầu kỳ nữa, mà thiên
về xu hướng đơn giản và đại khái, với sự tiếp nhận một số yếu tố mới lặp đi lặp lại ở khắp
nơi, như dùng sơn công nghiệp nên màu sắc tươi chói; bên cạnh các sắc đen, trắng, đỏ của
phổ màu truyền thống, đã sử dụng cả màu đen, vàng, nâu. Dải trang trí nên nóc của nhiều nhà
Rông nay được làm bằng tôn hoặc sắc. Trên mái hoặc vách ở mặt trước nhà thường gắn tấm
biển có hàng chữ nổi bật như nhãn hiệu của ngôi nhà, để giới thiệu đó là “nhà Rông văn hóa”
của thôn sở tại. Trong nhà, cũng thường gặp những hình thức trang trí hoàn toàn mới mẻ , như
vẽ hình đôi chim hòa bình, treo cờ đỏ sao vàng, ảnh Bác Hồ, áp – phích cổ động, khẩu hiệu,
giấy khen, lịch, tranh...
10
9. Nguyên nhân dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc nhà Rông ở Kon Tum hiện nay
a. Khó khăn về vật liệu gỗ do tài nguyên rừng đang bị giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt
thiếu loại gỗ đủ dài và to để dựng nhà theo quy cách kích thước nhà Rông truyền thống.
Chính sách bảo vệ rừng, hạn chế khai thác gỗ của Nhà nước cũng là một nguyên nhân gây
khó khăn cho việc khai tác vật liệu làm nhà Rông.
c. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội – văn hóa mới, với những biến đổi trong
cuộc sống và trong quan niệm, nhận thức, kể cả sự biến đổi của làng và nếp sống trong làng:
Sự gia tăng nhanh chóng dân số người Kinh và nhiều dân tộc khác đến Tây Nguyên, sự mở
rộng giao thông vận tải, mạng lưới điện, sự phát triển công tác giáo dục, các cuộc vận động
thực hiện định canh định cư, sự phát triển ruộng nước, làm kinh tế vườn và sự tác động của
yếu tố kinh tế thị trường.
d. Những người có kinh nghiệm làm nhà Rông dần trở nên già và ít đi, thêm vào đó lớp
trẻ ít quan tâm tìm hiểu về nhà Rông cũng là một nguyên nhân gây khó khăn trong công tác
xây dựng nhà Rông theo phương pháp và vật liệu truyền thống.
e. Việc truyền bá đạo Tin lành và Công giáo là một nhân tố đáng kể khác tạo nên những
thay đổi và có tác động tới nhà Rông nhất là tại những làng theo đạo.
10. Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn kiến trúc nhà Rông ở Kon Tum
a. Đánh giá thực trạng chi tiết các nhà Rông hiện có tại địa bàn thành phố Kon Tum,
phân loại mức độ xuống cấp cho từng trường hợp cụ thể.
b. Tìm hiểu về lịch sử, biện pháp thi công, chi tiết kiến trúc cho từng trường hợp cụ thể
nhà Rông để có giải pháp bảo tồn cải tạo phù hợp. Cần phỏng vấn, ghi chép và vẽ lại từ những
người có kinh nghiệm làm nhà Rông các kỹ thuật xây dựng nhà Rông để tránh mai một và
thất truyền kỹ thuật làm nhà.
c. Cần giữ lại nguyên trạng nhất có thể các chi tiết kiến trúc gốc. Đối với các chi tiết đã
bị hư hại cần được lấy ra và thay thế mà không làm hư hại đến các cấu kiện kiến trúc còn lại.
Hình 7. Thi công nhà Rông Ba Na tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam theo đúng nguyên mẫu kỹ
thuật thi công nhà Rông Konrbang thành phố Kon Tum (nguồn: Lưu Hùng)
11
d. Vật liệu sử dụng cho quá trình cải tạo sửa chữa phải được chọn sao cho giống nhất
với vật liệu nguyên gốc.
e. Đối với các công trình nhà Rông đã hư hại hoàn toàn và được làm lại mới thì cần tôn
trọng thiết kế cũ; làm giống với nguyên gốc nhất trong phạm vị kỹ thuật thi công và vật liệu
cho phép. Nếu nguyên gốc bị thay đổi qua nhiều thời kỳ thì cần chọn thời kỳ mà công trình có
giá trị nhất để phục dựng.
f. Quá trình cải tạo, phục dựng nhà Rông cần sử dụng phương pháp thi công truyền
thống tức là huy động lực lượng dân làng tự làm nhà Rông cho họ. Khai thác vật liệu từ tự
nhiên và lắp dựng công trình thủ công theo đúng quy trình thi công mà các thế hệ trước đã
làm.
g. Khuyến khích người dân xây dựng nhà Rông thay cho nhà cộng đồng hiện đại bằng
cách tuyên truyền, vận động, hỗ trợ kinh phí, tập huấn, cấp phép khai thác vật liệu tự
nhiên...Tăng cường việc giám sát xây dựng nhà Rông sử dụng nguồn vốn hỗ trợ nhà nước.
h. Khuyến khích sử dụng nhà Rông theo đúng chức năng gốc của nó là nơi tiếp khách,
nghỉ đêm, kể chuyện, sinh hoạt thôn, làng. Đồng thời kết hợp các chức năng mới với mục tiêu
là để người dân liên tục sử dụng nhà Rông, không để nhà Rông bị bỏ hoang, có như vậy người
dân mới có ý thức giữ gìn và phát huy giá trị nhà Rông.
i. Đưa nhà Rông vào khai thác du lịch để vừa quảng bá hình ảnh vừa gìn giữ giá trị văn
hóa, kiến trúc nhà Rông.
11. Kết luận
Trên đây là những biện pháp cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị kiến trúc
nhà Rông dân tộc Ba Na. Với những giải pháp như vậy cộng với công tác thực hiện nghiêm
túc và quyết liệt trên tinh thần tôn trọng và bảo tồn tối đa giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số, các nhà Rông đang xuống cấp sẽ được bảo vệ, giá trị văn hóa thôn làng trong đó
có văn hóa nhà Rông sẽ mãi là yếu tố đặc sắc của đồng bào dân tộc Tây Nguyên Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo
[1] Paul P.Guilemine (1952). Bộ lạc Bahnar ở Kon Tum, Bản dịch tại Viện Dân tộc học.
[2] Vị Hoàng (1976). Nhà rông các dân tộc ở bắc Tây Nguyên, Tạp chí Dân tộc học, Số 4/1976.
[3] Lưu Hùng (2001). Góp phần tìm hiểu Trường Sơn Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[4] Nguyễn Văn Kự - Lưu Hùng (2017). Nhà rông Tây Nguyên, Nxb Thế giới.
[5] Nguyễn Khắc Tụng và Nguyễn Hồng Giáp (1991). Nhà rông các dân tộc bắc Tây Nguyên, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12
[6] Đặng Nghiêm Vạn (1981). Các dân tộc tỉnh Gia Lai – Công Tum, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
[7] Nhiều tác giả (2002). Nhà rông – Nhà rông văn hóa, Kỷ yếu sơ kết 2 năm thực hiện chỉ thị
21/CT-UB của UBND tỉnh Kon Tum, Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Kon Tum.
[8] Ngoài ra là một số các bài viết trên tạp chí: Dân tộc học, Khảo cổ học, Văn hóa dân gian, Kiến
trúc Việt Nam, Văn nghệ Gia Lai, Văn nghệ Kon Tum…
[9] Hồng Hà (2010). Nhà Rông, nét văn hóa độc đáo ở Tây Nguyên, trong
https://nhandan.com.vn/vanhoa/item/4563302-.html (truy cập ngày 24 tháng 07 năm 2010).
[10] Hoàng Hương Giang (2013). Nhà rông và nhà rông văn hóa, trong
https://nhandan.com.vn/vanhoa/item/314202-.html (truy cập ngày 17 tháng 01 năm 2013).
[11] Thùy Duyên (2013). Kiến trúc nhà Rông Tây Nguyên, trong https://bamienads.com/tin-tuc/kien-
truc/kien-truc-nha-rong-tay-nguyen/ (truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2018).