nguỒn nhÂn lỰc hoẠt ĐỘng -...
Post on 30-Aug-2019
7 Views
Preview:
TRANSCRIPT
60 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NGUỒN NHÂN LỰC HOẠT ĐỘNG
XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM
Trần Ngọc Hùng*
*Chủ tịch Tổng Hội XDVN
Để thực hiện công cuộc hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam, đòi hỏi vốn đầu tư xây dựng rất lớn chiếm tỷ trọng 30-40% GDP. Tập trung đầu tư cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển các khu công nghiệp, ngành nghề, tốc độ đô thị hóa phát triển với nhiều dự án nhà ở, kèm theo đó là các công trình công cộng văn hóa, giáo dục, dịch vụ… được đầu tư tỷ lệ thuận với tốc độ tăng GDP hàng năm và nhu cầu của xã hội. Vì vậy, hoạt động xây dựng phát triển với tốc độ cao đòi hỏi nguồn nhân lực rất lớn làm việc từ lĩnh vực quản lý, tư vấn, sản xuất vật liệu xây dựng đến hoạt động xây lắp trên hàng chục vạn công trình xây dựng trải Hoạt động xây dựng phát triển với tốc độ cao đòi hỏi nguồn nhân lực lớn, chất lượng cao
rộng trên khắp miền của tổ quốc. Với vốn đầu tư hết sức lớn, giá trị sản xuất xây dựng năm 2015 theo giá so sánh năm 2010 đạt 778 nghìn tỷ đồng (khoảng 4 tỷ Đô la). Vì vậy, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến năng suất lao động, tiến độ, giá thành, chất lượng của dự án góp phần quan trọng vào hiệu quả đầu tư và vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn sắp tới, Việt Nam nằm trong cộng đồng kinh tế ASEAN khi hiệp định TPP được thông qua, thị trường quốc tế rộng mở đòi hỏi chất lượng của bộ máy quản lý, trình độ năng lực của tư vấn khảo sát, thiết kế, giám sát, quản lý dự án; quản lý thi công xây lắp đòi hỏi trình độ cán bộ quản lý; cũng như tay nghề của công nhân cần phải chuyên nghiệp, trình độ cao, sử dụng công nghệ tiên tiến để đảm bảo yếu tố cạnh tranh công bằng, công khai minh bạch trong cơ chế thị trường.
TÌNH HÌNH NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG
Cho đến năm 2015 tổng số doanh nghiệp hoạt động
ngành Xây dựng khoảng 77.500 doanh nghiệp (Theo báo
cáo của Tổng cục thống kê) chưa kể nhiều doanh nghiệp
nhỏ, doanh nghiệp gia đình không đăng ký với khoảng
4 triệu lao động. Với xu thế hội nhập, tiếp thu khoa học
công nghệ tiên tiến, các công ty tư vấn, khảo sát đã đảm
nhiệm thiết kế được nhiều loại công trình phức tạp nhà
cao 50 tầng, công trình thủy điện, nhiệt điện có công suất
lớn, các cầu giây văng có nhịp đến 500m, các dàn khoan
dầu khí nặng hàng ngàn tấn. Trình độ và năng lực quản lý
được nâng cao, nhiều doanh nghiệp đã đảm nhận tổng
thầu quản lý dự án khu đô thị, công trình công nghiệp,
giao thông thủy lợi lớn. Nhiều công ty có cán bộ công
nhân sử dụng thành thạo nhiều trang thiết bị hiện đại
trong xây dựng nhà cao tầng, công trình công nghiệp
phức tạp, đường hầm, đập lớn, khoan cọc nhồi có đường
kính lớn, công nhân đã được trang bị nhiều thiết bị cầm
tay năng suất cao như khoan, cắt, hàn tự động…
Tuy nhiên, qua theo dõi các hoạt động xây dựng từ
các nhà quản lý nhà nước đến các doanh nghiệp, nhìn
chung đều có chung nhận định lực lượng nguồn nhân
lực chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường xây dựng,
nhiều công trình vẫn phụ thuộc vào nguồn nhân lực nước
ngoài kể cả lực lượng thiết kế, giám sát, vận hành thiết
bị tiên tiến như công trình giao thông ngầm, công trình
hóa chất phức tạp, công trình nhà cao trên 50 tầng, công
trình công cộng, cầu vượt có khẩu độ lớn, công nghệ tiền
chế… Doanh nghiệp trong nước đã không cạnh tranh
nổi nhiều dự án đấu thầu trong và ngoài nước.
Đối với cán bộ quản lý nhà nước về xây dựng từ Trung
ương tới địa phương chỉ có 32% có trình độ sơ cấp và
chưa qua đào tạo riêng, cấp xã có đến 41% có trình độ sơ
cấp và 68,7% chưa được đào tạo về kiến thức quản lý nhà
nước. Đội ngũ cán bộ công chức ngành xây dựng còn bất
cập về chuyên môn chỉ có 36% có chuyên môn về kiến
trúc xây dựng. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động xây
dựng của xã hội từ khâu quản lý quy hoạch, thẩm định dự
án, cấp phép, quản lý trật tự xây dựng…
Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp hoạt động xây
dựng từ khảo sát, lập dự án, thiết kế, quản lý dự án, thi
công, giám sát, bảo hành, bảo trì… đã tăng rất nhanh. Có
77.500 doanh nghiệp hoạt động xây dựng với hàng chục
vạn cán bộ quản lý được thành lập một cách dễ dàng theo
Luật Doanh nghiệp không có tiền kiểm. Hơn nữa Luật Xây
dựng năm 2005 lại bỏ chứng chỉ chứng nhận năng lực
hoạt động xây dựng, tới khi Luật Xây dựng sửa đổi 2014
mới khôi phục việc cấp chứng chỉ cho tổ chức hoạt động
xây dựng, dẫn đến thực tế nhiều doanh nghiệp không
có đủ, đúng nhân sự quản trị doanh nghiệp. Rất nhiều
cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ không
được qua đào tạo, không có trình độ chuyên môn. Số
lượng doanh nghiệp có đủ năng lực cạnh tranh các dự án
lớn trên thị trường không nhiều mà nguyên nhân chủ yếu
là năng lực trình độ quản lý còn hạn chế. Cả về kiến thức
cũng như kinh nghiệm quản lý. Tỷ lệ cán bộ được đào tạo,
bồi dưỡng quản lý doanh nghiệp còn rất thấp đạt 3,9%
trình độ ngoại ngữ và tin học khoảng 17%, nhiều lĩnh vực
còn thiếu người, quản lý giỏi như công trình ngầm, quản
lý đô thị, quản lý dự án, kinh tế đô thị, bất động sản.
61Số 53.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
Nhiều công trình vẫn phụ thuộc vào nguồn nhân lực nước ngoài
62 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
Về lực lượng công nhân trực tiếp sản xuất, lực lượng quyết định đến năng
suất lao động, chất lượng, tiến độ của công trình đang là vấn đề rất đáng
quan tâm.Tỷ lệ công nhân qua đào tạo nghề rất thấp. Lấy ví dụ năm 2015
(theo báo cáo của Bộ Xây dựng) chỉ tiêu đào tạo là 25.585 chỉ tiêu trong đó
đào tạo từ Trung học chuyên nghiệp đến Đại học là 11.855. Trong khi chỉ tiêu
đào tạo nghề là 12.730 và trong thực tế chỉ đạt 50% chỉ tiêu, nhiều trường
dạy nghề không tuyển được công nhân. Nhiều cán bộ công nhân ra trường
lại không có việc làm hoặc doanh nghiệp phải đào tạp lại.
Theo cơ cấu bình quân hiện nay ở Việt Nam giữa kỹ sư - trung cấp chuyên
nghiệp - công nhân học nghề là 1:1,3:0,5 trong khi ở các nước trên thế giới
bình quân là 1:4:10.
Từ số liệu trên cho thấy tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, tình trạng phổ
biến hiện nay tại các công trình tỷ lệ công nhân, lao động chưa qua đào
tạo chiếm tỷ lệ lớn và nguy cơ là tỷ lệ này ngày càng tăng.
Do thực trạng nguồn nhân lực hoạt động xây dựng chưa đáp ứng
được yêu cầu, thiếu cả số lượng, yếu về chất lượng dẫn đến năng suất
lao động, tiến độ chậm, chất lượng sản phẩm còn nhiều sai phạm, từ đó
giảm sức cạnh tranh trên thị trường. Thậm chí có thể không đủ sức cạnh
tranh trên chính thị trường nội địa, đặc biệt là khi Việt Nam hòa nhập thị
trường quốc tế như tham gia vào khối cộng đồng chung ASEAN và tới
đây hiệp ước TPP có hiệu lực.
GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
Do tốc độ phát triển của hoạt động xây dựng quá nhanh, vốn đầu tư và
số lượng công trình xây dựng đạt đà tăng tốc quá lớn trong khi đó nhiều
cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý, tạo điều kiện phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường còn chưa theo kịp, qua
Nhiều công trình vẫn phụ thuộc vào nguồn nhân lực nước ngoài
nghiên cứu ý kiến của các nhà quản
lý, các chuyên gia, xin được kiến nghị
các giải pháp sau:
1. Phát triển nguồn nhân lực hoạt động xây dựng đáp ứng yêu cầu của thị trường là nhu cầu cấp
bách. Trên cơ sở “Quy hoạch phát
triển nhân lực ngành Xây dựng giai
đoạn 2011-2020”. Cần sớm tổ chức
đánh giá kết quả sau 5 năm thực
hiện 2011-2016. Muốn vậy, cần tổ
chức tổng điều tra toàn bộ các chỉ
tiêu mà Quy hoạch đã đề ra, tổng
điều tra toàn bộ nguồn nhân lực
ngành Xây dựng và dự báo yêu cầu
của thị trường để có các giải pháp
kịp thời, tổ chức triển khai thực hiện
đảm bảo “Chiến lược phát triển kinh
tế xã hội Việt Nam đến năm 2020” là
“Phát triển ngành Xây dựng đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng
yêu cầu xây dựng trong nước và có
năng lực đấu thầu công trình nước
ngoài. Ứng dụng công nghệ hiện đại,
nâng cao chất lượng và hiệu quả quy
hoạch, năng lực thiết kế, xây dựng và
thẩm mỹ kiến trúc”.
2. Một số kiến nghị giải pháp
cụ thể
2.1. Công tác Đào tạo
Đổi mới nội dung, chương trình
đào tạo theo hướng đáp ứng yêu cầu
của thị trường, đáp ứng yêu cầu hội
nhập, tăng cường giải pháp đào tạo
nội dung yêu cầu theo địa chỉ theo
cơ chế đặt hàng để ra trường (cả cán
bộ và công nhân) có việc làm ngay
không phải đào tạo lại.
Tăng cường các khóa học đào
tạo lại để cập nhật kiến thức mới
đặc biệt là kiến thức quản trị doanh
nghiệp đây là khâu yếu nhất của cán
bộ quản lý.
63Số 53.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
Đối với trường dạy nghề: Cần có
cơ chế chính sách kể cả nguồn kinh
phí để tăng cường cơ sở vật chất
phục vụ cho giảng dạy sát với yêu
cầu thực tế đặc biệt cơ chế chính
sách đãi ngộ với các thợ bậc cao, thợ
cả truyền nghề cho lớp trẻ.
2.2. Cơ chế chính sách phát triển
nguồn nhân lực
Ngành Xây dựng là một ngành
công nghiệp dịch vụ đặc biệt sản
phẩm đơn chiếc, thời gian dài, phải
làm việc ngoài trời, phụ thuộc vào
thời tiết, địa điểm làm việc biến động
nhiều khi phải xa nhà, xa gia đình.
Việc làm không ổn định, lúc làm việc
ngày đêm, lúc nhàn rỗi… Nhà nước
cần có cơ chế chính sách trong đào
tạo, chế độ đãi ngộ thông qua các
cơ chế chính sách theo cơ chế thị
trường, giao quyền cho các nhà thầu
trả lương theo yêu cầu của công việc
nhằm thu hút nguồn nhân lực giỏi
và hoạt động xây dựng (ở Mỹ lương
công nhân xây dựng được xếp hạng I
so sới các ngành nghề khác).
Với kinh nghiệm của nhà thầu nước ngoài cũng như một số nhà thầu có uy tín trên thị trường Việt Nam, họ trả lương cho nhà quản lý, kỹ sư, cán bộ, công nhân giỏi lương rất cao (vài ba chục triệu thậm chí hàng trăm triệu đồng) điều đó khuyến khích, giữ chân cán bộ quản lý giỏi, công nhân có trình độ cao đồng thời
cũng gắn với trách nhiệm, hiệu quả của công trình đảm bảo tiến độ, chất lượng, an toàn và kinh tế.
Trong cơ chế đấu thầu theo cơ chế thị trường cần gắn tiêu chí thương hiệu, tiêu chuẩn điều kiện năng lực của nhân lực nhà thầu, ở các nước hồ sơ dự thầu đều có mục danh sách các cán bộ quản lý chủ chốt, tham gia, quản lý, giám sát và hợp đồng còn quy định rõ những cán bộ nào không được thay đổi trong suốt quá trình thi công (nếu không được sự đồng ý của chủ đầu tư).
Cần ban hành quy định chức danh
cũng như bổ sung các chức danh
nhằm phân loại, khuyến khích đào
tạo cán bộ quản lý, công nhân giỏi
ngành Xây dựng như: Giám đốc Công
ty, Tổng Giám đốc Tổng Công ty, chỉ
huy trưởng dự án đặc biệt, nhóm A,
B, chức danh Tổng Công trình sư, kỹ
sư trưởng, kỹ sư chính… Đối với công
nhân là nghệ nhân, thợ cả, thợ chính.
3. Thực hiện sớm việc cổ phần hóa 100% vốn của tất cả các doanh nghiệp hoạt động xây dựng, để cổ
đông lựa chọn các nhà quản lý giỏi
phù hợp, quyết định chế độ đãi ngộ
theo hiệu quả công việc, từ đó phát
triển nguồn nhân lực phù hợp với
chiến lược phát triển doanh nghiệp
tránh tình trạng “bao cấp” trong đào
tạo, bổ nhiệm cán bộ quản lý cũng
như chế độ đãi ngộ thiếu công bằng,
công khai, minh bạch.
4. Bổ sung và khuyến khích phát triển loại hình Công ty cung ứng nguồn nhân lực. Do đặc điểm
của thi công công trình xây dựng
làm biến động về nhân lực, loại nghề
trong từng giai đoạn, một nhà thầu
không thể khép kín đầy đủ nguồn
nhân lực (hoặc có khép kín toàn bộ
thì lại bị mất cân đối dư thừa từng
loại cán bộ theo từng thời gian gây
lãng phí công nhân). Vì vậy, nếu áp
dụng cơ chế cung cấp nguồn nhân
lực hợp đồng theo từng giai đoạn
sẽ chuyên môn hóa công việc, luân
chuyển bổ sung cho các công trường
xây dựng theo tiến độ và công việc từ
đó sẽ tiết kiệm chi phí, giảm thời gian
chờ việc hoặc làm công việc không
đúng chuyên môn.
5. Việc áp dụng khoa học công
nghệ mới: Nhà nước cần dành kinh
phí nghiên cứu khoa học để khuyến
khích cho các doanh nghiệp áp
dụng các công nghệ tiên tiến nâng
cao năng suất lao động, tăng được
năng lực cạnh tranh trong cơ chế thị
trường.
Trên đây là một số vấn đề tập
trung vào các giải pháp và kiến nghị
tới các cơ quan hữu quan nhằm phát
triển nguồn nhân lực, góp phần vào
sự phát triển đầu tư xây dựng, phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
KSXD - Nhà báo Nguyễn Xuân Hải
Tại Điều 3 Khoản 20 của Luật Xây dựng (2014) đã giải thích rõ: Hoạt động xây dựng gồm lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng, thi công xây dựng, giám sát xây dựng, quản lý dự án, lựa chọn nhà thầu, nghiệm thu, bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng, bảo hành bảo trì công trình xây dựng và các hoạt động khác liên quan đến xây dựng công trình. Từ định nghĩa này, cho phép ta
được hiểu rằng: Tất cả những ai tham gia các hoạt động trên đều nằm trong nguồn nhân lực ngành Xây dựng.
Vài nét về hệ thống Văn bản pháp luật Xây dựng
Ở nước ta, từ trước khi có Luật Xây dựng (2003), tất cả mọi hoạt động xây dựng đều được điều chỉnh bằng các Nghị định của Chính phủ. Văn bản đầu tiên phải kể đến là: Nghị định 354/TTG ngày 5/8/1957 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý kiến thiết cơ bản; Nghị
NGÀNH XÂY DỰNG CẦN NẮM CHẮCNGUỒN NHÂN LỰC VỀ
LƯỢNG VÀ CHẤT
64 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
định 64CP ngày 19/11/1960 của Chính phủ ban hành về Điều lệ cấp phát kiến thiết cơ bản, Nghị định 242/CP ngày 31/12/1971 của Chính phủ ban hành Điều lệ lập, thẩm tra và xét duyệt thiết kế công trình xây dựng, Nghị định 232/CP ngày 6/6/1981 về quản lý xây dựng cơ bản. Tiếp đến là Nghị định 385/HĐBT ngày 7/11/1990. Cùng với sự phát triển của thời kỳ đổi mới, chuyển từ thời bao cấp sang cơ chế thị trường, các Nghị định này liên tục phải thay đổi: Từ 385/HĐBT đến 177/CP ngày 20/10/1994, Nghị định 42, 92/CP ngày 23/8/1997, Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999, rồi Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000.
Trước khi có Luật Xây dựng (2003), các Nghị định của
Chính phủ đều có quy định các doanh nghiệp xây lắp,
tư vấn thiết kế khảo sát xây dựng đều phải kê khai nhân
lực, tài chính, máy móc về Bộ Xây dựng để được cấp giấy
phép hành nghề (gọi là chứng chỉ hành nghề). Giấy đăng
ký kinh doanh Sở Kế hoạch Đầu tư không có giá trị để
hành nghề. Từ năm 2000 trở lại trước, việc làm này rất đều
đặn và vào khuôn phép. Bộ Xây dựng giao cho Sở Xây
dựng được cấp chứng chỉ hành nghề cho doanh nghiệp
hoạt động trong phạm vi tỉnh mình và chỉ được phép tiến
hành với dự án công trình nhóm C. Còn nhóm A,B do Bộ
Xây dựng cấp và doanh nghiệp được quyền hoạt động
trong phạm vi toàn quốc. Để cấp chứng chỉ hành nghề
cho các doanh nghiệp, Bộ Xây dựng cho thành lập một
Hội đồng xét duyệt gồm chuyên viên và lãnh đạo của Vụ
Chính sách Xây dựng nay là Cục Quản lý hoạt động xây
dựng, Vụ Kế hoạch thống kê, Vụ Tài chính kế toán, Cục
Giám định nhà nước về chất lượng công trình xây dựng,
Vụ Quy hoạch (nếu hành nghề quy hoạch), Vụ Thẩm kế
(nếu hành nghề tư vấn), Vụ Hợp tác Quốc tế (nếu là doanh
nghiệp nước ngoài). Hàng năm, các Sở Xây dựng báo cáo
về Bộ việc cấp chứng chỉ hành nghề tại địa phương mình
trong đó có thống kê nhân lực, thiết bị, tiền vốn của các
doanh nghiệp do mình cấp. Với cách làm việc như vậy,
tại thời điểm đó, Bộ Xây dựng nắm được khá chắc nguồn
nhân lực xây dựng trong toàn quốc kể cả trong lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, giao thông vận tải, nông nghiệp
phát triển nông thôn đều phải qua Bộ Xây dựng cấp
chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, việc cấp chứng chỉ hành
nghề cho các doanh nghiệp xây lắp, tư vấn xây dựng đã
bị chấm dứt sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời. Nghị
định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ về
hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Doanh nghiệp
và Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ bãi bỏ các loại giấy phép trái với quy định của Luật
Doanh nghiệp. Chứng chỉ hành nghề cho các doanh
nghiệp xây lắp, doanh nghiệp tư vấn xây dựng được coi
như giấy phép con, làm cản trở đến kinh doanh.
Luật Doanh nghiệp ra đời tưởng như một làn gió mới
cuốn đi mọi trở ngại cho doanh nghiệp. Sau 3 năm mới có
Luật Xây dựng (2003), trong quá trình làm Luật Xây dựng,
tuy có tranh luận khá gay gắt nhưng cũng không thể đưa
nội dung “Yêu cầu cấp chứng chỉ hành nghề cho doanh
nghiệp có hoạt động xây dựng” vào Luật Xây dựng được
vì ảnh hưởng của Luật Doanh nghiệp lúc đó quá lớn. Tuy
vậy, trong Luật Xây dựng (2003) cũng đã có quy định cá
nhân hành nghề độc lập hoặc những cá nhân chủ chốt
trong doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề phù
hợp với năng lực.
Nhưng không lâu sau đó, sự thoải mái do Luật Doanh nghiệp tạo ra đã phải trả giá. Bởi không có ai, không có cơ quan nào làm việc “hậu kiểm”. Doanh nghiệp có vài chục người cũng bằng doanh nghiệp có hàng ngàn người, doanh nghiệp có hàng chục năm kinh nghiệm cũng bằng doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Doanh nghiệp có ít vốn cũng bằng các doanh nghiệp nhiều vốn. Hiện tượng “Tay không bắt giặc” rất phổ biến. Các chủ đầu tư chẳng biết dựa vào đâu để xét thầu, nên đã có trường hợp doanh nghiệp nhỏ, không có kinh nghiệm trúng thầu, sau đó họ bán lại cho doanh nghiệp lớn thực hiện để nhận chênh lệch... thêm vào đó nhiều công trình lún sụt, nứt nẻ, đổ sập, gây tai nạn chết người. Tại thời điểm này, Bộ Xây dựng khó có thể nắm được nguồn nhân lực của Ngành. Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Sở Kế hoạch & Đầu tư lại càng không kiểm soát được. Bởi các doanh nghiệp họ chỉ cần đăng ký kinh doanh, mà ngành nghề kinh doanh của mỗi doanh nghiệp lại rất đa dạng, không chỉ làm xây dựng. Họ tùy ý
kê khai, vì không có cơ quan kiểm tra. Sau này khi có sự cố
65Số 53.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
xảy ra, tìm đến địa chỉ doanh nghiệp
khai thì được biết chưa có công ty
nào đóng trụ sở tại địa điểm như vậy.
Tình hình hiện nay
Luật Xây dựng (2014), có hiệu lực
từ 1/1/2015 đã quy định rất rõ tại
Điều 148 và Điều 149: Những chức
danh, cá nhân hành nghề hoạt động
xây dựng độc lập phải có chứng chỉ hành nghề theo quy định gồm an
toàn lao động; giám đốc quản lý dự án;
cá nhân trực tiếp tham gia quản lý dự
án; chủ trì thiết kế quy hoạch xây dựng;
chủ nhiệm khảo sát xây dựng; chủ
nhiệm, chủ trì thiết kế; thẩm tra thiết kế
xây dựng; chỉ huy trưởng công trường;
giám sát thi công xây dựng; kiểm định
xây dựng; định giá xây dựng. Chứng
chỉ hành nghề được phân thành hạng
I, hạng II, hạng III.
Tổ chức tham gia hoạt động xây dựng được phân thành hạng I, hạng II, hạng III do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về xây dựng đánh giá, cấp chứng chỉ năng lực. Bộ Xây dựng cấp chứng chỉ năng lực hạng I, Sở Xây dựng cấp chứng chỉ năng lực hạng II, hạng III. Tổ chức tham gia hoạt động xây dựng phải đăng ký kinh doanh hành nghề phù hợp theo quy định của pháp luật.
Như vậy là có 2 loại chứng chỉ:
Chứng chỉ hành nghề cấp cho cá
nhân và chứng chỉ năng lực cấp cho
tổ chức. Chứng chỉ năng lực do nhà
nước độc quyền cấp. Còn chứng chỉ
cấp cho cá nhân thì Luật quy định
thẩm quyền cấp như sau:
- Cơ quan chuyên môn của Bộ Xây
dựng sát hạch và cấp chứng chỉ loại I
- Sở Xây dựng, Tổ chức xã hội nghề
nghiệp có đủ điều kiện theo quy định
của Chính phủ có thẩm quyền sát
hạch, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt
động xây dựng các hạng còn lại.
Từ quy định của Luật Xây dựng
(2014), hiện nay Bộ Xây dựng bắt đầu
nắm trở lại nguồn nhân lực ngành
Xây dựng. Cho đến thời điểm này, sẽ
còn nhiều khó khăn đối với Bộ Xây
dựng trong việc nắm được nguồn
nhân lực ngành Xây dựng bởi Thông
tư số 17/2016/TT-BXD của Bộ Xây
dựng hướng dẫn về năng lực của tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động
xây dựng mới được ban hành ngày
30/6/2016.
Vấn đề đặt ra? Để phấn đấu sớm đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, Đảng và Nhà nước ta
hàng năm đã dành tới 30-40% GDP
cho công tác đầu tư xây dựng. Nhiều
khu đô thị mới phát triển, nhiều công
trình kinh tế văn hoá xã hội được xây
dựng, nhiều khu công nghiệp, nhà
máy mọc lên. Đặc biệt trong lĩnh vực
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cầu
đường bến cảng, sân bay, điện, cấp
nước, thoát nước, xử lý rác thải, thuỷ
lợi, nông nghiệp và phát triển nông
thôn... được phát triển rất mạnh. Hơn
nữa, trong thời hội nhập toàn cầu,
Việt Nam nằm trong cộng đồng kinh
tế Asean, gia nhập TPP và các AFTA
thế hệ mới, chúng ta đang bước sang
một giai đoạn phát triển mới, có thể
nói là cuộc cải cách, đổi mới lần thứ
hai. Đây là một thử thách lớn, hoặc là
ta sẽ thua ngay trên sân nhà hoặc là
ta vừa thắng trong sân nhà vừa thắng
ở sân bạn. Để chuẩn bị cho một cuộc
đấu lớn, cuộc đấu “mang tính sinh
tử” chúng ta cần phải làm gì? Đối với
ngành Xây dựng, phải điều tra một
cách toàn diện về lực lượng, chất
lượng như thế nào, chúng ta đang
sử dụng công nghệ xây dựng gì, trên
cơ sở đó mới phân tích mặt yếu, mặt
mạnh của Ngành. Sau đó khắc phục
bổ sung, đặc biệt trong lĩnh vực quản
Cán bộ phải nắm được pháp luật về xây dựng và thường xuyên được tham dự các lớp tập huấn để nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức
66 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
lý khi chúng ta mới thoát thai từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
và còn bỡ ngỡ khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường.
Vì những lẽ trên, nhiệm vụ trước
tiên là cần điều tra toàn diện:
Điều tra thực trạng nguồn nhân
lực toàn ngành Xây dựng Việt Nam
(bao gồm cả xây dựng giao thông,
thuỷ lợi, nông nghiệp & phát triển
nông thôn, quốc phòng an ninh
của các Bộ Ngành, địa phương bao
gồm cả quốc doanh, liên doanh, tư
nhân). Trên cơ sở số liệu có được,
tiến hành đánh giá số liệu, đánh
giá chất lượng của lực lượng hiện
có; Điều tra đánh giá công nghệ
xây dựng hiện nay đang áp dụng
tại Việt Nam; Điều tra và tìm hiểu
phương thức quản lý của các doanh
nghiệp xây dựng. Trên cơ sở điều tra
khảo sát, phân tích ưu nhược điểm
đề xuất giải pháp khắc phục.
Như trên đã trình bày, để phục vụ
cho hội nhập, công tác điều tra, khảo
sát đánh giá toàn diện nguồn nhân
lực ngành Xây dựng Việt Nam là công
việc cấp thiết, cần tiến hành ngay. Để
làm việc này, nên thực hiện một dự
án khảo sát điều tra do Bộ Xây dựng
và Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch
và đầu tư cùng thực hiện.
Một số suy nghĩ, đề xuất
Về mặt lý luận cũng như trong
thực tiễn, để chúng ta có thể hội
nhập sâu rộng toàn diện, theo tác
giả cần quan tâm đến những nội
dung sau đây:
Một là: Cần chuyên môn hoá,
chuyên nghiệp hoá cao trong mọi
hoạt động xây dựng. Ở Pháp cũng
như ở các nước Tây Âu cách đây 30
năm người ta đã làm việc này. Với
một công trình dân dụng thông
thường đã có đến trên 20 công ty
cùng tham gia trong một công trình:
Công ty làm nền móng, công ty làm
phần thô bên trên (bêtông, gạch, cốt
thép), công ty làm sườn kèo kim loại,
công ty chống thấm, rồi các công ty
làm cửa, đá ốp lát, sơn, kính, trang
trí, vách ngăn, sưởi, quạt, thiết bị vệ
sinh, trang trí nội thất, điện, thang
máy, điện thoại... Để xây dựng một
nhà máy điện nguyên tử đã có tới 85
công ty cùng tham gia dưới đó là 300
xí nghiệp chuyên nghiệp cùng phối
hợp làm.
Hai là: Do chuyên môn hoá cao
nên công việc quản lý, phối hợp điều
hành phải rất nhanh nhạy và chính
xác. Vì thế, cần đẩy mạnh việc ứng
dụng công nghệ thông tin.
Ba là: Để bảo đảm chất lượng
sản phẩm, chất lượng công trình,
các doanh nghiệp xây dựng, vật liệu
xây dựng, kể cả các viện nghiên cứu,
công ty tư vấn, khảo sát thiết kế...
cần xây dựng cho đơn vị mình Hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn quốc tế ISO. Theo nguyên tắc
“Đầu vào của anh này là đầu ra của
anh kia”. Trách nhiệm của từng người,
từng đơn vị rất minh bạch rõ ràng,
không tồn tại tình trạng đổ thừa
trách nhiệm cho nhau.
Bốn là: Những cán bộ chủ chốt
cần phải thông thạo ngoại ngữ (cụ
thể là tiếng Anh)
Năm là: Những cán bộ chủ chốt
phải nắm được pháp luật về xây
dựng, và thường xuyên được tham
dự các lớp tập huấn để nâng cao
trình độ và cập nhật kiến thức.
Sáu là: Khi hoạt động xây dựng
ở nước ngoài cần nắm được Luật của
nước ngoài. Những doanh nghiệp
lớn nên có một luật sư đặc biệt khi
ký kết hợp đồng. Hợp đồng xây dựng
phải chặt chẽ, tỷ mỷ, không thể coi
nhẹ. Hợp đồng chính là sự sống còn
của doanh nghiệp.
Bảy là: Thường xuyên tổ chức các
lớp đào tạo để nâng cao trình độ,
trao đổi, cập nhật thông tin.
Tám là: Tiến tới hình thành thị
trường lao động xây dựng. Không
nhất thiết công ty nào cũng cần
tuyển đủ loại thợ dài hạn, khi có dự án
công trình họ có thể thuê thợ chuyên
nghiệp một thời gian. Như vậy sẽ có
những công ty nhân lực, chuyên cho
thuê thợ, cho thuê người quản lý, cho
thuê thiết bị, công cụ...
67Số 53.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
top related